Nhìn lại một thập kỷ thực hiện chiến lược phát triển vận tải

Từ khi bắt đầu triển khai đến nay, thị trường dịch vụ vận tải có bước thay đổi căn bản với quy mô và chất lượng dịch vụ, cơ bản đáp ứng nhu cầu vận chuyển của người dân.

Năm 2024, đánh dấu 10 năm thực hiện chiến lược phát triển dịch vụ vận tải. Từ khi bắt đầu triển khai đến nay thị trường dịch vụ vận tải đã có bước thay đổi căn bản với quy mô và chất lượng dịch vụ, cơ bản đáp ứng nhu cầu vận chuyển của người dân. Tuy vậy, thực tiễn đòi hỏi cần tổng kết đánh giá lại toàn diện để xây dựng một chiến lược phát triển vận tải trong kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc.

Nhìn lại một thập kỷ thực hiện chiến lược phát triển vận tải- Ảnh 1.

Vận tải đường biển tập trung phát triển năng lực vận tải hàng hóa xuất, nhập khẩu.

Năm 2014, Thủ tướng Chính phủ ký Quyết định 318 phê duyệt Chiến lược phát triển dịch vụ vận tải đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Lần đầu tiên một chiến lược phát triển riêng cho lĩnh vực vận tải được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt thay vì được gộp chung trong các chiến lược phát triển giao thông vận tải vốn chủ yếu đề cập đến phát triển kết cấu hạ tầng như những lần trước đây. 

Điều này cho thấy, phát triển vận tải đã chú trọng nhiều hơn, bởi mục tiêu cuối cùng khi phát triển kết cấu hạ tầng giao thông cũng là để nâng cao chất lượng vận tải.

Chiến lược 318 đặt mục tiêu tổng quát nhằm nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải, giảm chi phí vận tải, bảo đảm trật tự, an toàn giao thông và bảo vệ môi trường, đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu vận tải hàng hóa, hành khách và tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, đưa Việt Nam từng bước trở thành trung tâm trung chuyển hàng hóa và hành khách của khu vực, góp phần quan trọng thực hiện thắng lợi chiến lược phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh.

Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực dịch vụ vận tải, phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước và kinh doanh thương mại, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, công khai, minh bạch.

Trong đó, về mục tiêu cụ thể, đến năm 2020, tái cơ cấu thị trường vận tải nội địa theo hướng giảm thị phần vận tải bằng đường bộ, tăng thị phần vận tải bằng đường sắt và đường thủy nội địa, đặc biệt là trên các hành lang vận tải chính.

Tỷ lệ đảm nhận vận tải hành khách công cộng của Hà Nội đáp ứng khoảng 25%, của TP.HCM khoảng 20% nhu cầu đi lại; nâng cao tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của phương tiện vận tải, hiệu quả sử dụng năng lượng; kiểm soát, phòng ngừa, hạn chế gia tăng ô nhiễm môi trường trong hoạt động vận tải.

Nhìn lại một thập kỷ thực hiện chiến lược phát triển vận tải- Ảnh 2.

Hành khách di chuyển bằng xe buýt điện tại Hà Nội.

Nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải hàng hóa, hành khách với chi phí phù hợp, góp phần giảm chi phí logistics của nền kinh tế xuống còn khoảng 15% GDP; tăng cường an toàn giao thông trong hoạt động kinh doanh vận tải, phấn đấu giảm từ 5-10% bình quân hằng năm về số người chết do tai nạn giao thông có nguyên nhân từ kinh doanh vận tải.

Tăng cường vai trò quản lý Nhà nước, từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật trong lĩnh vực dịch vụ vận tải, phân định rõ chức năng quản lý Nhà nước và kinh doanh thương mại, tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, công khai, minh bạch.

Chiến lược cũng đặt ra đến năm 2030 đưa năng suất, chất lượng và hiệu quả dịch vụ vận tải hành khách đạt mức tiên tiến trong khu vực; tỷ lệ đảm nhận vận tải hành khách công cộng tại thành phố Hà Nội đáp ứng khoảng 40% nhu cầu đi lại trong đó đường sắt đô thị khoảng 17%; tại TP.HCM đáp ứng khoảng 35% nhu cầu đi lại trong đó đường sắt đô thị khoảng 18%; xây dựng hệ thống dịch vụ vận tải thân thiện với môi trường, tiết kiệm năng lượng, kiểm soát được các thành phần gây ô nhiễm môi trường trong các hoạt động vận tải.

Nhìn lại một thập kỷ thực hiện chiến lược phát triển vận tải- Ảnh 3.

Chuyến tàu chở hàng liên vận quốc tế khởi hành tại ga Cao Xá (Hải Dương) ngày 2/5/2024.

Về định hướng phát triển thị trường vận tải: Tổ chức vận tải hợp lý nhằm phát huy tối đa lợi thế của từng phương thức vận tải, trong đó đẩy mạnh vận tải đường bộ thu phát hàng, vận tải cự ly ngắn, khối lượng vận tải nhỏ đến trung bình; tăng cường vận tải hành khách liên tỉnh có cự ly ngắn và trung bình, kết nối các vùng nông thôn và đô thị, khu vực biên giới, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn.

Ưu tiên phát triển dịch vụ vận tải đường sắt đảm nhận vận tải hàng hóa khối lượng lớn, cự ly trung bình từ 300km trở lên, đẩy mạnh dịch vụ vận tải hành khách liên tỉnh trên các hành lang chính, vận tải hành khách công cộng tại các thành phố lớn.

Ưu tiên, khuyến khích phát triển vận tải đường thủy nội địa chủ yếu đảm nhận vận chuyển hàng rời khối lượng lớn, hàng siêu trường, siêu trọng, năng lực vận tải container kết nối tới các cảng biển lớn, các trung tâm sản xuất công nghiệp theo các tuyến đường thủy nội địa chính yếu, các tuyến sông pha biển…

Vận tải đường biển tập trung phát triển năng lực vận tải hàng hóa xuất, nhập khẩu, vận chuyển hàng hóa quốc tế, vận tải tuyến ven biển Bắc - Nam, vận chuyển hàng hóa và hành khách từ đất liền ra các đảo xa bờ; đẩy mạnh phát triển chuỗi sản phẩm vận tải và du lịch đường biển, nâng cao năng lực tiếp nhận tàu chở khách du lịch.

Cùng đó, khẩn trương mở đường bay và tăng cường năng lực vận tải hành khách, hàng hóa trên các đường bay tầm xa đến châu Âu, Bắc Mỹ, Mỹ Latinh và châu Phi; có chính sách thu hút các hãng hàng không mở đường bay tầm xa đến các cảng trung chuyển.

Về định hướng chiến lược phát triển phương tiện vận tải, phát triển phương tiện vận tải có quy mô đáp ứng nhu cầu vận tải, có cơ cấu, chủng loại phù hợp kết cấu hạ tầng giao thông, loại hàng hóa và đối tượng hành khách, đảm bảo tiêu chuẩn kỹ thuật về an toàn, bảo vệ môi trường và sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả. 

Nâng cao tiêu chuẩn an toàn kỹ thuật và bảo vệ môi trường của phương tiện vận tải, hiệu quả sử dụng năng lượng; kiểm soát, phòng ngừa, hạn chế gia tăng ô nhiễm môi trường trong hoạt động vận tải.

Về phát triển doanh nghiệp vận tải, chiến lược cũng nêu rõ, hoàn thành tái cơ cấu doanh nghiệp vận tải Nhà nước theo hướng đẩy mạnh cổ phần hóa, giảm thiểu số lượng và tỷ lệ sở hữu Nhà nước trong doanh nghiệp vận tải, trừ trường hợp tại các đơn vị kinh doanh vận tải bảo đảm quốc phòng, an ninh và an sinh xã hội; tách biệt kinh doanh kết cấu hạ tầng đường sắt với kinh doanh vận tải thành các doanh nghiệp độc lập, khẩn trương cổ phần hóa các doanh nghiệp vận tải và cung ứng dịch vụ hỗ trợ vận tải đường sắt…

Đánh giá việc thực hiện các mục tiêu và định hướng đã đặt ra đến năm 2020 cho thấy, Chiến lược 318 đã có những đóng góp quan trọng trong việc định hướng phát triển vận tải trên phạm vi cả nước, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ vận tải, từng bước tái cơ cấu vận tải trên cơ sở phát huy thế mạnh của từng phương thức vận tải.

Tuy nhiên, Chiến lược 318 cũng có nhiều điểm hạn chế dẫn đến việc thực hiện không đạt được kết quả như mục tiêu đã đặt ra, đặc biệt đối với vận tải đường sắt trên cả các tuyến quốc gia và đô thị. Nguyên nhân chủ yếu là việc chậm triển khai xây dựng, nâng kết cấu hạ tầng đường sắt theo quy hoạch, dẫn đến cả khối lượng vận tải và thị phần vận tải của đường sắt không được cải thiện.

Bên cạnh đó, một số giải pháp, cơ chế chính sách thực hiện chiến lược chưa được ban hành đầy đủ như giải pháp về huy động vốn, phát triển nguồn nhân lực… cũng là một trong những nguyên nhân.

Vận tải cần làm gì trong kỷ nguyên mới?

Những định hướng phát triển quan trọng cho ngành vận tải Việt Nam chủ yếu thực hiện theo Quyết định 318/ QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về Chiến lược phát triển dịch vụ vận tải đến năm 2020, định hướng đến năm 2030. Tuy nhiên, đến thời điểm hiện nay, khi thực tiễn và nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội cho giai đoạn tiếp theo có nhiều yếu tố mới tác động đến ngành vận tải, đòi hỏi phải xây dựng một chiến lược mới phù hợp hơn.

Đây là nhu cầu cấp thiết trong bối cảnh hiện nay do sự thay đổi nhanh chóng của xã hội, kinh tế và công nghệ. Trong đó, Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 được Quy hoạch thông qua tại Nghị quyết số 81/2023/QH15 ngày 9/1/2023.

Theo đó, các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội đất nước đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045 đã thay đổi và xuất hiện nhiều yếu tố mới, làm thay đổi đầu vào đối với công tác dự báo và phân bổ nhu cầu vận tải so với trước đây.

Các quy hoạch kết cấu hạ tầng giao thông theo các chuyên ngành đường bộ, đường sắt, đường biển, đường thủy nội địa và hàng không đều đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt cho giai đoạn đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045.

Theo đó nhiều mục tiêu phát triển mới đã được xác định để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội như mục tiêu xây dựng 5.000km đường bộ cao tốc, xây dựng tuyến đường sắt tốc độ cao trên hành lang Bắc - Nam, bổ sung cảng trung chuyển quốc tế Cần Giờ…

Mặc dù các quy hoạch chuyên ngành đã được xây dựng dựa trên kết quả dự báo nhu cầu vận tải tổng thể, thống nhất và có sự phân bổ đồng bộ, hợp lý giữa các phương thức vận tải, nhưng nội dung quy hoạch này chủ yếu tập trung định hướng phát triển kết cấu hạ tầng mà thiếu các định hướng chuyên sâu về phát triển vận tải như Chiến lược 318 đưa ra trước đây về phương tiện vận tải, tổ chức vận tải, vận tải đa phương thức và dịch vụ logistics, thị trường vận tải, doanh nghiệp vận tải, các chỉ tiêu về chất lượng vận tải và vấn đề an toàn giao thông… 

Điều này có thể dẫn đến sự phát triển không đầy đủ của vận tải hoặc/và sự thiếu đồng bộ và gắn kết giữa kết cấu hạ tầng và vận tải.

Nhìn lại một thập kỷ thực hiện chiến lược phát triển vận tải- Ảnh 4.

Hành khách lên máy bay tại sân bay quốc tế Nội Bài.

Sự phát triển của khoa học công nghệ kỷ nguyên 4.0 đang làm thay đổi cách thức vận hành và phát triển của ngành vận tải trên toàn thế giới, cần phải được nghiên cứu, định hướng trong một chiến lược phát triển mới của ngành vận tải.

Các công nghệ như trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật (IoT), blockchain, máy bay không người lái, giao thông thông minh (ITS), công nghệ vận tải siêu tốc, in 3D, điện khí hóa và năng lượng tái tạo, tự động hóa… được xác định sẽ tạo ra những bước phát triển đột phá về mọi mặt trong hoạt động vận tải.

Những yếu tố trên không chỉ thay đổi cách thức vận tải truyền thống mà còn mang lại cơ hội phát triển bền vững, thân thiện với môi trường, đảm bảo an toàn và tối ưu hóa chi phí vận hành.

Ngành giao thông vận tải đã và đang nhận thức rõ về xu thế phát triển này và có những bước đi ban đầu như: Tập trung ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý điều hành và tăng cường khai thác hiệu quả năng lực vận tải, cải thiện môi trường cạnh tranh kinh doanh để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhanh chóng hấp thụ và phát triển được các công nghệ mới… chất lượng vận tải và vấn đề an toàn giao thông…

Điều này có thể dẫn đến sự phát triển không đầy đủ của vận tải hoặc/và sự thiếu đồng bộ và gắn kết giữa kết cấu hạ tầng và vận tải. Sự phát triển của khoa học công nghệ kỷ nguyên 4.0 đang làm thay đổi cách thức vận hành và phát triển của ngành vận tải trên toàn thế giới, cần phải được nghiên cứu, định hướng trong một chiến lược phát triển mới của ngành vận tải.

Các công nghệ như trí tuệ nhân tạo (AI), internet vạn vật (IoT), blockchain, máy bay không người lái, giao thông thông minh (ITS), công nghệ vận tải siêu tốc, in 3D, điện khí hóa và năng lượng tái tạo, tự động hóa… được xác định sẽ tạo ra những bước phát triển đột phá về mọi mặt trong hoạt động vận tải.

Những yếu tố trên không chỉ thay đổi cách thức vận tải truyền thống mà còn mang lại cơ hội phát triển bền vững, thân thiện với môi trường, đảm bảo an toàn và tối ưu hóa chi phí vận hành. 

Ngành giao thông vận tải đã và đang nhận thức rõ về xu thế phát triển này và có những bước đi ban đầu như: Tập trung ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý điều hành và tăng cường khai thác hiệu quả năng lực vận tải, cải thiện môi trường cạnh tranh kinh doanh để thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp, tạo điều kiện cho doanh nghiệp nhanh chóng hấp thụ và phát triển được các công nghệ mới…

Yêu cầu bảo vệ môi trường và phát triển bền vững ngày càng cao trên phạm vi toàn cầu cũng đưa đến những bước ngoặt phát triển vận tải của nước ta. Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình hành động về chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải khí các-bon và khí mê-tan của ngành giao thông vận tải tại Quyết định số 876/ QĐ-TTg ngày 22/7/2022 để thực hiện cam kết của Việt Nam tại COP26.

Chương trình hướng tới mục tiêu chuyển đổi toàn diện sang năng lượng xanh trong ngành giao thông, đồng thời tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển của các công nghệ và phương tiện giao thông xanh. Để thực hiện chương trình này, cần phải xây dựng một chiến lược toàn diện tập trung vào phát triển phương tiện của tất cả các phương thức vận tải với lộ trình thực hiện phù hợp.

Đối với phát triển giao thông đô thị, mô hình phát triển đô thị gắn với giao thông công cộng (TOD) đã và đang được nhiều đô thị trên thế giới thực hiện với những ưu điểm nổi bật là giải pháp quan trọng trong phát triển đô thị bền vững ở Việt Nam, rất cần được nghiên cứu ứng dụng để thoát khỏi sự phụ thuộc vào phương tiện cá nhân, thúc đẩy phát triển giao thông công cộng và có thể bố trí một cách hiệu quả các công trình hạ tầng đô thị...

Thực tế cho thấy, quy hoạch đường sắt đô thị tại nước ta đã được thực hiện và đang tiến hành đầu tư xây dựng tại Hà Nội và TP.HCM cũng định hướng gắn kết với hệ thống đường sắt quốc gia, đặc biệt tại các ga đường sắt tốc độ cao sẽ trở thành các ga đóng vai trò trọng điểm.

Tương tự tại các tỉnh, thành phố khác hiện nay cũng đang triển khai nghiên cứu quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 và cũng định hướng phát triển đô thị trên cơ sở các đầu mối giao thông vận tải lớn, trong đó ga đường sắt tốc độ cao cũng được các địa phương nghiên cứu tích hợp trở thành khu vực trung tâm, động lực phát triển của không chỉ địa phương, mà của cả vùng lân cận.

Đây là cơ hội và điều kiện thuận lợi lớn để các tỉnh, thành phố hoạch định phát triển mô hình và cấu trúc phát triển đô thị, khi các quy hoạch cấp quốc gia và cấp tỉnh được triển khai xây dựng có sự tích hợp, đồng bộ trong phát triển tổng thể.

Tuy nhiên, dù đã được triển khai tại nhiều thành phố trên thế giới, TOD vẫn là khái niệm mới tại nước ta. Để áp dụng thành công mô hình này, cần được định hướng, lồng ghép vào các quy hoạch của quốc gia và của đô thị dựa trên một chiến lược tổ chức vận tải hợp lý.

Trong bối cảnh này, việc xây dựng một chiến lược phát triển vận tải mới là rất cần thiết, hướng đến sự phát triển bền vững, hiệu quả của toàn ngành giao thông vận tải, phù hợp với xu hướng của cách mạng khoa học công nghệ 4.0, tạo tiền đề cho nền kinh tế số và hội nhập quốc tế xu hướng, đồng thời thực hiện những cam kết và lộ trình chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải khí cácbon và khí mê-tan của ngành giao thông vận tải Việt Nam.

Nhìn lại một thập kỷ thực hiện chiến lược phát triển vận tải- Ảnh 5.

25/12/2024, 23:00