1. Cắt giảm đồ uống có đường: Không chỉ góp phần gây béo phì và tiểu đường, chúng còn có thể làm tăng nguy cơ ung thư nội mạc tử cung. Theo nghiên cứu của Trường Y tế Công cộng thuộc Đại học Minnesota, những phụ nữ uống một lượng lớn đồ uống có đường có nguy cơ mắc ung thư nội mạc tử cung cao hơn tới 87%. |
2. Ăn tinh bột kháng: Tinh bột kháng được tìm thấy trong thực phẩm như chuối xanh, yến mạch và đậu trắng, có thể giúp giảm nguy cơ ung thư ruột kết. Theo tạp chí Nghiên cứu phòng chống ung thư, những người tham gia nghiên cứu đã tăng 30% sự tăng sinh tế bào ở mô trực tràng sau khi ăn 300 gram thịt đỏ nạc mỗi ngày trong 4 tuần. Sau khi thêm 40 gram tinh bột kháng mỗi ngày trong khi ăn thịt, mức độ tăng sinh tế bào đã trở lại bình thường. |
3. Đứng nhiều hơn và ngồi ít hơn: Các nghiên cứu mới cho thấy rằng, những người dành phần lớn thời gian trong ngày để ngồi có nguy cơ mắc ung thư ruột kết và nội mạc tử cung cao hơn 24%. Một nghiên cứu khác cho thấy, những người dành nhiều thời ngồi xem TV có nguy cơ mắc ung thư ruột kết tăng 54% so với những người xem ít hơn. |
4. Ăn nhiều các loại hạt: Chúng giàu selenium, một khoáng chất vi lượng được tìm thấy trong đất giúp tiêu diệt các tế bào ung thư. Một nghiên cứu của Harvard với hơn 1.000 nam giới mắc bệnh ung thư tuyến tiền liệt cho thấy, những người có nồng độ selen trong máu cao có khả năng mắc bệnh tiến triển thấp hơn 48% so với nam giới có mức độ thấp. Và một nghiên cứu kéo dài 5 năm được thực hiện tại Đại học Cornell và Đại học Arizona đã chỉ ra rằng, tiêu thụ 200 microgam selenium hằng ngày giúp giảm 63% nguy cơ mắc khối u tuyến tiền liệt, ung thư đại trực tràng ít hơn 58%, giảm 46% khối u ác tính và giảm 39% tử vong do ung thư. |
5. Ăn nhiều tỏi: Tỏi chứa các hợp chất lưu huỳnh allyl có thể kích thích sự bảo vệ tự nhiên của hệ thống miễn dịch chống lại ung thư và có khả năng giúp cơ thể thoát khỏi các hóa chất gây ung thư. Một nghiên cứu cho thấy, những phụ nữ thường xuyên ăn tỏi có nguy cơ mắc ung thư ruột kết thấp hơn 50% so với những phụ nữ itr ăn loại củ này. |
6. Tích cực ăn rau họ cải: Theo một nghiên cứu đa quốc gia ở Châu Âu, những người ăn bắp cải, súp lơ, bông cải xanh... ít nhất 1 lần mỗi tuần có nguy cơ mắc bệnh ung thư thận thấp hơn so với những người tiêu thụ chúng ít hơn. |
7. Ăn atisô: Atisô là một nguồn tuyệt vời của silymarin, một chất chống oxy hóa có thể giúp ngăn ngừa ung thư da bằng cách làm chậm sự phát triển của tế bào ung thư. |
8. Nhận ánh nắng mặt trời ít nhất 15 phút mỗi ngày: Gần 90% vitamin D của cơ thể đến trực tiếp từ ánh sáng mặt trời, không phải từ thực phẩm hoặc chất bổ sung. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng, thiếu hụt vitamin D có thể làm giảm sự giao tiếp giữa các tế bào, khiến chúng ngừng dính lại với nhau và cho phép các tế bào ung thư lây lan. Vitamin D cũng có thể giúp thúc đẩy sự trưởng thành và sinh sản tế bào thích hợp. Những người có lượng vitamin D thấp có nguy cơ mắc nhiều bệnh ung thư cao hơn, bao gồm vú, đại tràng, tuyến tiền liệt, buồng trứng và dạ dày, cũng như loãng xương, tiểu đường, đa xơ cứng và huyết áp cao. Nhưng tránh tiếp xúc quá nhiều, có thể gây ung thư da, bạn chỉ cần vài phút mỗi ngày để sản xuất đủ lượng vitamin D. |
9. Ướp thịt trước khi chế biến: Nhiệt độ cao khi nướng thịt có thể tạo ra các hợp chất gọi là amin dị vòng, có liên quan đến ung thư. Các hợp chất này có thể làm hỏng DNA đủ để thúc đẩy sự phát triển của các khối u trong ruột kết, vú, tuyến tiền liệt và các tế bào bạch huyết. Một nghiên cứu của Đại học Minnesota cho thấy ăn thịt cháy thường xuyên có thể làm tăng nguy cơ ung thư tuyến tụy lên tới 60%. Theo nghiên cứu trên Tạp chí Hóa học Nông nghiệp và Thực phẩm, ướp thịt đỏ trong bia hoặc rượu trong 2 giờ trước khi nấu làm giảm lượng các hợp chất có hại này. |
10. Uống trà xanh: Hơn 50 nghiên cứu về mối liên hệ giữa trà và nguy cơ ung thư đã được công bố từ năm 2006, theo Viện Ung thư Quốc gia. Một số nghiên cứu đã phát hiện ra rằng, những người uống trà có tác dụng giảm nguy cơ ung thư vú, buồng trứng, đại tràng, tuyến tiền liệt và phổi. |
11. Nhâm nhi 1 ly bia hoặc rượu vang: Bia hoặc rượu vang có chứa chất bảo vệ cơ thể chống lại vi khuẩn Helicobacter pylori - gây loét và có thể dẫn đến ung thư dạ dày. Một nghiên cứu của Đại học Queens ở Belfast đã phát hiện ra rằng, một lượng vừa phải rượu, bia có thể bảo vệ cơ thể chống lại H. pylori. Tuy nhiên, không được lạm dụng nó: Uống nhiều hơn 2 hoặc 2 đồ uống có cồn mỗi ngày có thể làm tăng nguy cơ mắc bệnh ung thư miệng, cổ họng, thực quản, gan và ung thư vú. |
12. Ăn kiwi: Kiwi chứa chất chống oxy hóa chống ung thư, bao gồm vitamin C, vitamin E, lutein và đồng. |
13. Ngủ trong bóng tối: Nghiên cứu cho thấy, tiếp xúc với ánh sáng vào ban đêm có thể làm tăng nguy cơ ung thư buồng trứng và vú ở phụ nữ. Ánh sáng ngăn chặn việc sản xuất melatonin, hóa chất trong não điều chỉnh chu kỳ đánh thức giấc ngủ của chúng ta, có thể làm tăng sự giải phóng ung thư do estrogen. Một nghiên cứu cho thấy nguy cơ ung thư vú gia tăng ở những phụ nữ không ngủ trong thời gian mà nồng độ melatonin của họ cao nhất. |
14. Ăn protein động vật ít chất béo: Các nhà nghiên cứu của Đại học Harvard phát hiện ra rằng, những người ăn khoảng 90gram thịt đỏ mỗi ngày có nguy cơ tử vong cao hơn 13% vì bệnh tim hoặc ung thư. Một nghiên cứu của Đại học Yale cho thấy, những phụ nữ ăn nhiều protein động vật có nguy cơ mắc ung thư hạch không Hodgkin cao hơn 70%. Chuyển sang sữa ít béo hoặc không béo, chọn thịt gia cầm hoặc cá thay vì thịt bò hoặc thịt lợn, và sử dụng dầu ô liu thay vì bơ là chế độ dinh dưỡng được các nhà khoa học khuyến cáo. |
15. Ăn quả nho đỏ: Chúng là nguồn resveratrol tuyệt vời, một chất chống oxy hóa có thể làm chậm sự phát triển ung thư ở các hạch bạch huyết, dạ dày, vú và gan. Một nghiên cứu năm 2011 từ Trung tâm Khoa học Y tế Đại học Texas cho thấy, resveratrol ức chế tổn thương da dẫn đến ung thư da. Mặc dù tất cả vỏ nho đều chứa resveratrol, nho đỏ và tím có nhiều nhất. |
16. Ăn hành: Khi nói đến thực phẩm chống ung thư, các nhà nghiên cứu khoa học phát hiện ra rằng, hành tây và hẹ có đặc tính chống oxy hóa mạnh mẽ, cũng như các hợp chất ức chế sự phát triển của tế bào, bảo vệ cơ thể chống lại nhiều loại ung thư. |
17. Đi bộ 30 phút mỗi ngày: Theo Trung tâm nghiên cứu ung thư Fred Hutchinson, hơn 20 nghiên cứu đã chỉ ra rằng những phụ nữ tập thể dục có nguy cơ mắc ung thư vú thấp hơn 30 đến 40% so với những phụ nữ ít hoạt động hơn. Tập thể dục vừa phải làm giảm nồng độ estrogen trong máu, một loại hormone có thể ảnh hưởng đến nguy cơ ung thư vú. Một nghiên cứu khác liên kết 4 giờ đi bộ 1 tuần với việc giảm một nửa nguy cơ ung thư tuyến tụy. Những lợi ích có thể liên quan đến việc chuyển hóa insulin được cải thiện do tập thể dục. |
18. Hạn chế ăn khoai tây chiên: Khi thực phẩm được nướng, chiên hoặc rang ở nhiệt độ cao, một hợp chất gây ung thư tiềm năng gọi là dạng acrylamide, là kết quả của những thay đổi hóa học xảy ra trong thực phẩm. Các nghiên cứu thực hiện trên chuột đã chỉ ra rằng, phơi nhiễm acrylamide kéo dài là nguy cơ mắc nhiều loại ung thư. |
19. Ngừng tắm nắng trực tiếp: Tiếp xúc với ánh nắng mặt trời tự nhiên khi nắng gắt trong thời gian dài đã được chứng minh là làm tăng nguy cơ ung thư da. |
20. Ăn dưa cải: Một nghiên cứu của Phần Lan cho thấy quá trình lên men trong dưa cải tạo ra một số hợp chất chống ung thư, bao gồm isothiocyanates (hoặc ITCs), indoles và sulforaphane. Để giảm hàm lượng natri, rửa sạch dưa cải đóng hộp trước khi ăn. |
Bình luận bài viết (0)
Gửi bình luận