Xưởng thuộc nhà máy Boeing.
P-8A có chiều dài 39 m, cao 12 m, sải cánh 35 m, trọng lượng rỗng 62 tấn, tải trọng bay tối đa 85 tấn.
P-8A Poseidon sử dụng 2 động cơ phản lực CFM56-7B27A với lực đẩy 120 kN, hành trình tối đa trên 11.000 km, bán kính tác chiến 4800km, tốc độ bay tối đa là 900 km/h, tốc độ bay tuần tra thông thường 400km/h.
Với phi hành đoàn 9 người, P-8A được sử dụng trong các nhiệm vụ tác chiến mặt nước và tác chiến chống ngầm tầm xa; trinh sát và giám sát (ISR) thu thập tin tức tình báo từ ven bờ ra các vùng biển xa.
Trần bay tối đa của P-8A là gần 13km nhưng chủ yếu nó sẽ bay trinh sát ở tầm thấp khoảng 15000 feet (4,57km).
P-8A lắp đặt 5 giá treo vũ khí trong khoang và 6 giá treo vũ khí hai bên cánh, có thể mang theo lượng vũ khí hơn 5,5 tấn.
Vũ khí chống ngầm chủ lực của nó gồm có bom khoan nước sâu và ngư lôi chống ngầm Mk-54, giúp nó có khả năng chống ngầm xuất sắc.
Ngoài ra, P-8A còn được trang bị tên lửa chống hạm AGM-84 Harpoon, đảm bảo cho nó có khả năng tự vệ trước các tàu mặt nước.
Thiết bị trinh sát ngầm chủ yếu của P-8A bao gồm: hệ thống thăm dò từ tính vỏ tàu ngầm MAD do công ty CAE của Canada chế tạo và radar giám sát biển AN/APY-10 của hãng Raytheon.
Trên máy bay còn lắp đặt các thiết bị kiểm tra, giám sát, bao gồm: thiết bị thăm dò từ tính và hồng ngoại, hệ thống phao sonar, phao nước và pháo sáng…
Khi tiến hành các nhiệm vụ chống ngầm, P-8A có thể cùng một lúc giám sát 64 phao sonar bị động và 32 phao sonar chủ động, tức là gấp 3 lần loại máy bay trinh sát chống ngầm P-3C Orion hiện đang được Mỹ và một số nước sử dụng.
Nó được thiết kế dựa trên cơ sở nguyên mẫu chiếc máy bay chở khách Boeing 737 thuộc “Kế hoạch nghiên cứu MMA” (Multi-mission Maritime Aircraft), triển khai vào cuối thập niên 90, thế kỷ XX, theo Lao động.
Video Boeing P-8A Poseidon "săn" và tác chiến chống ngầm:
Nguồn video: YouTube
Bình luận bài viết (0)
Gửi bình luận