58/60 dự án sụt giảm doanh thu
Bộ GTVT cho biết đang quản lý 61 hợp đồng dự án đầu tư theo hình thức BOT, trong đó có 60 dự án hoàn thành đi vào khai thác.
Bộ GTVT cho biết, trước khi bùng phát dịch Covid-19, thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng, Bộ GTVT đã báo cáo, kiến nghị giải pháp khắc phục khó khăn, vướng mắc do doanh thu thực tế thấp hơn so với dự báo trong phương án tài chính của hợp đồng BOT. Trên cơ sở rà soát số liệu đến hết năm 2019, Bộ GTVT đã báo cáo có 45 dự án doanh thu thực tế thấp hơn so với dự báo trong phương án tài chính của hợp đồng BOT. Trong đó, có 2 dự án doanh thu chỉ đạt 13 - 15% và 3 dự án chưa được thu, đang tạm dừng thu.
Nguyên nhân được Bộ GTVT chỉ ra chủ yếu là do giảm giá vé cho phương tiện lân cận trạm thu phí và giảm giá vé theo chỉ đạo của Chính phủ tại Nghị quyết 35/2016. Bên cạnh đó do sự gia tăng các phương tiện sử dụng vé tháng, quý, năm; lưu lượng xe qua trạm thu phí ở một số tuyến thấp hơn so với dự báo.
"Đặc biệt là việc chưa được tăng phí theo lộ trình trong hợp đồng BOT theo chỉ đạo của Chính phủ để ổn định kinh tế vĩ mô. Các doanh nghiệp BOT gặp nhiều khó khăn khi phải bổ sung kinh phí để trả nợ ngân hàng theo kế hoạch. Các ngân hàng đã có ý kiến về nguy cơ phải cơ cấu lại thời hạn trả nợ, chuyển nhóm nợ đối với khoản vay", Bộ GTVT cho biết.
Cũng theo Bộ GTVT, những khó khăn, vướng mắc nói trên chưa được giải quyết, từ đầu năm 2020 dịch Covid-19 xuất hiện tác động tiêu cực tới mọi mặt tới mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội của đất nước. Trong đó, các doanh nghiệp BOT bị ảnh hưởng trực tiếp do lưu lượng phương tiện giảm sâu, dẫn đến doanh thu giảm, nhất là trong thời gian thực hiện giãn cách xã hội.
Qua tổng hợp số liệu thống kê các doanh nghiệp BOT, có tới 58/60 dự án doanh thu thực tế thấp hơn so với doanh thu dự báo trong phương án tài chính của hợp đồng BOT, trong đó 17 dự án doanh thu thực tế chưa đạt 50% so với dự báo.
Kiến nghị Chính phủ nhiều giải pháp tháo gỡ
Trước những khó khăn phát sinh, các doanh nghiệp BOT đã kiến nghị Bộ GTVT báo cáo cấp có thẩm quyền có giải pháp hỗ trợ, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc tập trung vào các nội dung như: cơ cấu lại thời hạn trả nợ, gia hạn nợ và giữ nguyên nhóm nợ, không chuyển các doanh nghiệp BOT sang nhóm nợ xấu. Giãn thời gian nộp thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp các năm 2019 và 2020. Miễn, giảm lãi vay phát sinh trong thời gian có dịch bệnh Covid-19.
"Cùng đó, hỗ trợ, giảm lãi suất vay của các khoản vay đầu tư kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức hợp đồng BOT; kiến nghị giảm từ 2-3%/năm so với hiện nay lãi suất vay đang dao động khoảng 10-11%/năm. Bố trí ngân sách Nhà nước để bù đắp phần doanh thu sụt giảm khi doanh nghiệp BOT thực hiện theo các chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ; Xem xét trưng mua một phần hoặc toàn bộ đối với các dự án có trạm thu phí chưa được tổ chức thu phí do không đảm bảo an ninh trật tự", Bộ GTVT cho biết.
Về các giải pháp hạn chế việc giảm lưu lượng do phân lưu phương tiện qua trạm thu phí, Bộ GTVT kiến nghị Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo các địa phương trước khi đầu tư các tuyến đường giao thông ảnh hưởng đến các dự án BOT đã triển khai cần có sự thống nhất của Bộ GTVT và các nhà đầu tư BOT bị ảnh hưởng. Trường hợp tiếp tục đầu tư, cần tính toán bổ sung vào dự án kinh phí để bù đắp phần doanh thu thiếu hụt do ảnh hưởng của dự án.
Về mức thu phí, Bộ GTVT kiến nghị 2 phương án. Trong đó, phương án 1: Cho phép tăng phí dịch vụ sử dụng đường bộ theo hợp đồng dự án. Giao Bộ GTVT lựa chọn thời điểm phù hợp để hạn chế tối đa ảnh hưởng đến chi phí vận tải. Đồng thời, chỉ đạo các địa phương bố trí lực lượng chức năng đảm bảo an ninh trật tự tại trạm thu phí (khi cần thiết).
Phương án 2: Giữ nguyên mức phí như hiện tại, chỉ thực hiện tăng phí theo lộ trình đã ký trong hợp đồng dự án từ năm 2022; Nhà nước bố trí khoảng 5.080 tỷ đồng hỗ trợ các dự án do chưa được tăng giá theo hợp đồng BOT đã ký. Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ để bố trí kế hoạch vốn. Bộ GTVT đàm phán với nhà đầu tư và ngân hàng cung cấp tín dụng.
Trên cơ sở phân tích cụ thể ưu, nhược điểm các phương án, Bộ GTVT kiến nghị Thủ tướng Chính phủ xem xét, chấp thuận phương án 1 vì có nhiều ưu điểm hơn và không phải bố trí ngân sách nhà nước.
Bộ GTVT cũng kiến nghị Thủ tướng chỉ đạo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và các ngân hàng thương mại cổ phần có giải pháp hỗ trợ, tái cơ cấu thời hạn trả nợ và giữ nguyên nhóm nợ đối với các dự án đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông theo hình thức hợp đồng BOT. Đồng thời, giảm lãi vay phát sinh trong thời gian có dịch Covid-19. Việc phương án tài chính bị ảnh hưởng là do chính sách giá khi điều hành kinh tế vĩ mô (miễn, giảm phí; chưa tăng phí theo lộ trình) và các yếu tố khách quan dẫn đến doanh thu thu phí thấp hơn doanh thu dự báo trong hợp đồng dự án.
Bên cạnh đó, Bộ GTVT cũng kiến nghị Thủ tướng, giao Bộ GTVT tính toán kinh phí Nhà nước cần thiết để hỗ trợ các dự án có doanh thu thực tế giảm trên 50% so với doanh thu tính toán trong phương án tài chính của hợp đồng BOT đã ký và các dự án chưa được thu phí. Trường hợp cần thiết, đề xuất để Nhà nước trưng mua lại toàn bộ dự án. Giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp, báo cáo Thủ tướng Chính phủ để cân đối kế hoạch vốn trung hạn giai đoạn 2021-2025. Chấp thuận cho các doanh nghiệp BOT giãn thời hạn nộp thuế giá trị gia tăng và thuế thu nhập doanh nghiệp các năm 2019, 2020.
"Trên cơ sở ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ, Bộ GTVT sẽ tiếp tục chủ trì, phối hợp các bộ, ngành, địa phương liên quan và các doanh nghiệp BOT rà soát các dự án, có phương án xử lý phù hợp, đảm bảo công khai, minh bạch, hài hòa lợi ích của Nhà nước - người dân - nhà đầu tư, phù hợp với hợp đồng dự án đã ký và giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đã cấp", Bộ GTVT cho biết thêm.
Dịch Covid-19 làm gia tăng khoảng cách giữa doanh thu thực tế với doanh thu dự báo trong phương án tài chính của hầu hết các hợp đồng BOT, từ đó ảnh hưởng rất lớn tới khả năng trả nợ của các doanh nghiệp BOT. Các ngân hàng thường yêu cầu trả nợ theo kế hoạch. Doanh nghiệp BOT phải bù thêm từ nguồn vốn khác vì doanh thu thực tế thấp hơn so với dự báo dẫn đến rất khó khăn và không có nguồn vốn để thực hiện công tác bảo trì công trình, dẫn đến tiềm ẩn nguy cơ mất ATGT. Đồng thời, việc này tiềm ẩn nguy cơ cao phát sinh nợ xấu, ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng, an toàn hệ thống tín dụng.
Bình luận bài viết (0)
Gửi bình luận