Bộ Công an cho biết, Luật Căn cước có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1/7 sẽ tạo thuận tiện cho người dân trong các giao dịch hành chính. Mỗi công dân sẽ được cấp một căn cước điện tử và có giá trị sử dụng trong nhiều trường hợp.
Cụ thể, khoản 17 Điều 3 Luật Căn cước quy định, căn cước điện tử là căn cước của công dân Việt Nam được thể hiện thông qua tài khoản định danh điện tử do hệ thống định danh và xác thực điện tử tạo lập.
Căn cước điện tử gồm các dữ liệu sau: Danh tính điện tử, các thông tin về nơi sinh, nơi đăng ký khai sinh, quê quán, dân tộc, tôn giáo, quốc tịch, nhóm máu, số chứng minh nhân dân 9 số, nơi thường trú, nơi tạm trú, nơi ở hiện tại, thông tin nhân dạng, nghề nghiệp…
Đáng chú ý, những thông tin như thẻ bảo hiểm y tế, sổ bảo hiểm xã hội, giấy phép lái xe, giấy khai sinh, giấy chứng nhận kết hôn… sẽ được tích hợp vào căn cước điện tử theo đề nghị của công dân. Các thông tin này phải được xác thực thông qua cơ sở dữ liệu quốc gia, cơ sở dữ liệu chuyên ngành.
Về giá trị sử dụng, Điều 33 Luật Căn cước nêu rõ, căn cước điện tử có giá trị chứng minh về căn cước và thông tin khác đã được tích hợp vào căn cước điện tử của người được cấp căn cước điện tử. Mục đích để thực hiện thủ tục hành chính, dịch vụ công, các giao dịch và hoạt động khác theo nhu cầu của công dân.
Khi giải quyết thủ tục hành chính, dịch vụ công hay thực hiện các giao dịch và hoạt động khác, nếu phát hiện có sự khác nhau giữa thông tin in trên thẻ căn cước hoặc thông tin có trong bộ phận lưu trữ được mã hóa của thẻ căn cước với thông tin trong căn cước điện tử, thì cơ quan, tổ chức, cá nhân sử dụng thông tin trong căn cước điện tử.
Cũng theo Luật Căn cước, căn cước điện tử bị khóa trong các trường hợp: Người được cấp căn cước điện tử yêu cầu khóa; người được cấp căn cước điện tử vi phạm thỏa thuận sử dụng ứng dụng VNeiD; người được cấp căn cước điện tử bị thu hồi, bị giữ thẻ căn cước; người được cấp căn cước điện tử chết; có yêu cầu của cơ quan tiến hành tố tụng hoặc cơ quan khác có thẩm quyền.
Cùng với đó, căn cước điện tử được mở khóa khi người được cấp căn cước điện tử đã yêu cầu khóa trước đó; người được cấp căn cước điện tử vi phạm thỏa thuận nhưng đã khắc phục; người được cấp căn cước điện tử đã bị thu hồi, bị giữ thẻ căn cước được trả lại thẻ căn cước; khi cơ quan tiến hành tố tụng hoặc cơ quan khác có thẩm quyền yêu cầu mở khóa.
Bình luận bài viết (0)
Gửi bình luận