PGS.TS Trịnh Khắc Mạnh giới thiệu một tấm bản đồ cổ, trong đó Hoàng Sa được gọi là “Bãi cát vàng” |
Có đủ bằng chứng khẳng định Hoàng Sa, Trường Sa của Việt Nam
Từ những tư liệu mà Viện Nghiên cứu Hán Nôm lưu giữ, xin ông cho biết, người Việt đã xác lập chủ quyền trên biển đảo từ thời điểm nào?
Lần theo sử sách chúng ta thấy, Nhà nước Việt Nam từ thời Lý đã quan tâm tới việc đo vẽ bản đồ lãnh thổ quốc gia. Theo “Khâm định Việt sử thông giám cương mục” thì: “Mùa thu năm 1075, Lý Thường Kiệt đã cho vẽ bản đồ hình thế núi sông ở ba châu Bố Chính, Ma Linh và Địa Lý”. Các triều vua sau này tiếp tục thực hiện việc đo vẽ bản đồ đất nước. Thời Lê sơ, vua Lê Thánh Tông (năm 1470) định bản đồ trong cả nước và có tập “Hồng Đức bản đồ”; thời Lê Trung Hưng, Đỗ Bá vẽ “Thiên Nam tứ chí lộ đồ”; thời Nguyễn có bản đồ đời Đồng Khánh với tiêu đề “Đồng Khánh địa dư chí”.
Hay đơn cử như “Thiên Nam tứ chí lộ đồ thư” của Đỗ Bá có niên đại năm 1686; Sách “Thiên Nam lộ đồ”, ký hiệu: A.1081, lưu giữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm có đoạn ghi: “Giữa biển khơi có dải cát dài gọi là Bãi Cát Vàng, phỏng từ cửa Đại Chiêm đến cửa Sa Huỳnh ước dài 500-6000 dặm, rộng 30-40 dặm, đứng sừng sững giữa biển”; sách “Thiên tải nhàn đàm” vẽ Bãi Cát Vàng (Hoàng Sa) thuộc chủ quyền của Việt Nam.
Về các bộ sử, địa chí, hội điển, chúng tôi sưu tầm được khoảng gần một trăm đơn vị tài liệu với vài trăm trang tư liệu ghi chép hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển ở biển Đông thuộc chủ quyền của Việt Nam trong lịch sử.
Về các tập văn bản hành chính, chúng tôi sưu tầm được khoảng vài chục đơn vị tài liệu với hàng trăm trang ghi chép về hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển của Việt Nam ở biển Đông thuộc chủ quyền của Việt Nam, đặc biệt trong đó là các tập châu bản triều Nguyễn...
Thông qua những tư liệu Hán Nôm nói trên, ông có thể nói rõ về vấn đề quản lý của Nhà nước phong kiến Việt Nam đối với 2 quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển của Việt Nam trên biển Đông?
Cho đến thời điểm hiện nay, chúng tôi đã sưu tập được nhiều đơn vị tài liệu Hán Nôm ghi chép về chủ đề này, đã thể hiện nhất quán lập trường quan điểm của Nhà nước phong kiến Việt Nam về việc quản lý hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển của Việt Nam ở biển Đông. Hàng năm, Nhà nước phái người ra quần đảo Hoàng Sa để đo đạc, cắm mốc, vẽ bản đồ về mang trình tấu triều đình. Theo những ghi chép trong bộ “Đại Nam thực lục”, vua Gia Long khi thiết lập vương triều Nguyễn, đã tiếp tục công việc của các chúa Nguyễn là phái người đi thăm dò đường biển ra đảo Hoàng Sa, tiếp tục đo đạc, cắm mốc, vẽ bản đồ để khẳng định chủ quyền của nhà nước Việt Nam đối với quần đảo này. Năm Gia Long thứ 15 (1816), vua Gia Long lại tiếp tục phái đội Hoàng Sa đi thăm dò đường biển đi ra quần đảo Hoàng Sa.
Sách “Đại Việt sử ký tục biên” viết: “Vào năm Cảnh Hưng thứ 15 (1754) đặt đội Hoàng Sa gồm 70 suất, lấy người xã An Vĩnh sung vào”. Đồng thời cho xây dựng miếu và đặt bia trên đảo Hoàng Sa, điều này được ghi rõ trong “Đại Nam thực lục”…
Nhà nước phong kiến Việt Nam cũng luôn quan tâm giáo dục ý thức coi trọng chủ quyền đối với Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển ở biển Đông cho các thế hệ người Việt Nam. Trong các tài liệu Hán Nôm, sách dạy học chữ Hán cho lớp đồng ấu cũng đã có những nội dung ghi chép về chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển ở biển Đông. Tiêu biểu như sách “Khải đồng thuyết ước”, khắc in năm Tự Đức Tân Tỵ (1881), là cuốn sách dạy về các kiến thức xã hội, lịch sử, địa lý…
Trung Quốc thừa nhận biên giới chỉ đến đảo Hải Nam
Vậy còn phía Trung Quốc họ thừa nhận vấn đề chủ quyền như thế nào trong các thư mục cổ, thưa ông?
Bộ ván khắc “Đại Nam thực lục” đang lưu giữ tại kho Mộc bản tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia 4, được Tổ chức UNESCO công nhận là Di sản tư liệu thế giới năm 2009 thuộc Chương trình Ký ức thế giới; văn bản in đã ghi lại một điều hết sức quan trọng: “Thuyền buôn Ma Cao (Trung Quốc) đậu tại Đà Nẵng đem bản đồ Hoàng Sa dâng trình vua Gia Long năm 1817 và được vua thưởng 20 lạng bạc”. Điều đặc biệt ở đây là, tàu thuyền của nhà Thanh đã đem dâng trình vua Gia Long tấm bản đồ Hoàng Sa mà không trình bản quốc đã cho thấy trong quan niệm và nhận thức của người Trung Quốc từ khi đó, quần đảo Hoàng Sa đã là của Đại Nam, do đó họ phải dâng vua Đại Nam, nhà nước đang quản lý quần đảo này.
Tư liệu bản đồ của Trung Quốc đã in đều thể hiện biên giới Trung Quốc chỉ đến đảo Hải Nam. Chúng tôi mới sưu tập được một cuốn sách giáo khoa của bậc tiểu học Trung Quốc in năm 1912 do Bộ Giáo dục Trung Hoa dân quốc phát hành, biên giới của họ chỉ đến đảo Hải Nam giống như những tập Át lát do nhà nước Trung Hoa chính thức phát hành. Khi đó, Trung Quốc đã thừa nhận về mặt nhà nước, rằng hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa không phải của họ.
Với những những tư liệu quý khẳng định chủ quyền của Tổ quốc, Viện nghiên cứu Hán Nôm đã phổ biến như thế nào để thế giới biết về những bằng chứng không thể chối cãi trong việc khẳng định chủ quyền của Việt Nam?
Trong nhiều năm, Viện Nghiên cứu Hán Nôm đã thực hiện công trình “Thư mục Hán Nôm về thực thi chủ quyền biển đảo của Việt Nam”, đề tài này được nghiệm thu với lượng tư liệu là hơn 3.000 trang. Để phục vụ nhiệm vụ chính trị, chúng tôi công bố tư liệu Hán Nôm về chủ quyền của Việt Nam với Hoàng Sa, Trường Sa và chủ quyền của VN ở biển Đông qua cuốn sách “Một số tư liệu Hán Nôm khẳng định chủ quyền của Việt Nam ở Hoàng Sa, Trường Sa và các vùng biển khác của Việt Nam”.
Cuốn sách chọn giới thiệu 46 tư liệu với gần 500 trang trong số 3.000 trang tài liệu đã được nghiệm thu trên. Có nhiều tư liệu đã dịch ra tiếng Việt, các nhà nghiên cứu đã tiếp cận dưới dạng đen trắng, photo. Nhưng giờ đây được công bố nguyên bản theo bản gốc lưu trữ tại Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Nội dung các tư liệu đều thể hiện sự nhất quán quản lý nhà nước Việt Nam trong lịch sử đối với hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa và vùng biển của Việt Nam ở biển Đông.
Cảm ơn ông!
Bình luận bài viết (0)
Gửi bình luận