Các hình thức tránh thai từ thời cổ đại
Các hình thức kiểm soát sinh đẻ sớm đã được tìm thấy ở Ai Cập cổ đại và Lưỡng Hà từ năm 1850 trước Công nguyên.
Các cuộn giấy cói được phát hiện có chứa hướng dẫn về cách kiểm soát sinh sản, sử dụng mật ong, lá keo, và cả xơ vải như một dạng nắp cổ tử cung để ngăn tinh trùng xâm nhập vào tử cung.
Từ năm 1850, vỏ kẹo cao su keo được coi là một biện pháp tránh thai. Hay việc cho con bú kéo dài đến ba năm cũng được sử dụng như một hình thức kiểm soát sinh đẻ ở Ai Cập cổ đại.
Trong khoảng thời gian này, có lẽ một trong những hình thức kiểm soát sinh sản cổ đại nổi tiếng nhất là cây silphium, có nguồn gốc từ Bắc Phi.
Loại cây này được sử dụng làm thuốc tránh thai và cực kỳ phổ biến ở Hy Lạp và La Mã cổ đại.
Ở Hy Lạp cổ đại, nhiều loài thực vật được sử dụng như một hình thức kiểm soát sinh sản, bao gồm asafoetida, một loài họ hàng gần của loài silphium đã tuyệt chủng.
Queen Anne"s Lace là một loại cây tránh thai phổ biến khác, và ở một số vùng của Ấn Độ, ngày nay nó vẫn được sử dụng để ngừa thai.
Cây silphium
Nhiều hình thức kiểm soát sinh sản cổ xưa khá độc hại và tiềm ẩn nhiều nguy cơ. Tuy nhiên, chỉ riêng việc mang thai và sinh nở đã giết chết hàng triệu phụ nữ thời cổ đại vì họ không có các biện pháp can thiệp y học hiện đại.
Vậy nên ta có thể hiểu tại sao nhiều phụ nữ phải chấp nhận những rủi ro đi kèm với biện pháp kiểm soát sinh đẻ cổ đại.
Ở Hy Lạp cổ đại, phụ nữ được khuyên uống muối đồng hòa tan trong nước như một cách để tránh thai đến một năm, mặc dù muối đồng là chất độc gây hại cho cơ thể.
Các nhà sử học hiện đại tin rằng hầu hết các hình thức kiểm soát sinh sản cổ đại đều không hiệu quả ngoại trừ việc kéo dài thời gian cho con bú.
Thậm chí ngày nay, phương pháp này có tỷ lệ hiệu quả là 78% nếu được sử dụng đúng cách và nhất quán.
Phong trào kiểm soát sinh đẻ xuất hiện
Năm 1909, dụng cụ đặt tử cung đầu tiên làm từ ruột tằm đã được giới thiệu và phát triển thêm trong suốt những năm 1920 ở châu Âu.
Tại Hoa Kỳ, việc cấm cung cấp thông tin xung quanh tình dục an toàn và tránh thai đã khiến các bác sĩ và những hoạt động vì sức khỏe sinh sản khác của phụ nữ trở nên khó khăn hơn.
Margaret Sanger phổ biến thuật ngữ “ kiểm soát sinh sản” vào khoảng năm 1914. Bà mở phòng khám kiểm soát sinh sản đầu tiên vào năm 1916, nhưng nó bị đóng cửa 9 ngày sau đó vì vi phạm Đạo luật Comstock và các luật liên quan. Sanger bị bắt và đưa ra xét xử.
Việc đưa tin về cuộc thử nghiệm đã giúp khơi dậy phong trào kiểm soát sinh sản ở Hoa Kỳ Các nhà tài trợ và những người khác có liên quan đến phong trào nữ quyền đã hỗ trợ Sanger và tài trợ cho những nỗ lực trong tương lai của cô trong lĩnh vực sức khỏe sinh sản.
Năm 1921, Sanger tiếp tục thành lập liên đoàn kiểm soát sinh sản đầu tiên ở Mỹ.
Thuốc tránh thai được phát minh khi nào?
Vào những năm 1950, Gregory Pincus và John Rock đã tạo ra những viên thuốc tránh thai đầu tiên.
Những viên thuốc này không được phổ biến rộng rãi cho đến những năm 1960. Năm 1972, quyền sử dụng các biện pháp tránh thai được mở rộng cho các cặp đôi chưa kết hôn.
Những hạn chế đối với các biện pháp tránh thai được dỡ bỏ, nhiều tiến bộ khoa học và y tế trong lĩnh vực sinh sản, kế hoạch hóa gia đình và kiểm soát sinh sản đã được phổ biến hơn.
Giờ đây, phụ nữ không chỉ được sử dụng thuốc viên mà còn sử dụng các dụng cụ tử cung, miếng dán, vòng và thuốc tránh thai khẩn cấp hiệu quả và an toàn cao.
Trong thế kỉ 21, việc kiểm soát sinh đẻ đối với nữ giới không chỉ an toàn hơn mà họ còn có nhiều lựa chọn hơn.
Điều đó có nghĩa là họ có quyền tự chủ nhiều hơn về cơ thể cũng như sức khỏe sinh sản và tình dục của chính bản thân mình, để từ đây có thể lựa chọn được biện pháp tránh thai phù hợp.
Bình luận bài viết (0)
Gửi bình luận