Đoạn cao tốc Cao Bồ (Nam Định) - Bãi Vọt (Hà Tĩnh) nằm trong dự án cao tốc Bắc - Nam - Ảnh: Tạ Tôn |
Theo Tờ trình của Chính phủ gửi đến Quốc hội, một số dự án cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông trong giai đoạn 2017-2020 được đầu tư theo quy mô phân kỳ 4 làn xe, nền đường rộng 17-25m. Tuy nhiên, một số ý kiến cho rằng, Chính phủ cần thực hiện theo quy hoạch với quy mô 24,75m (4 làn xe) và 32,25m (6 làn xe).
Căn cứ nhu cầu vận tải, nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước
Thừa ủy quyền của Thủ tướng Chính phủ, ngày 3/11, Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thể đã báo cáo Quốc hội xem xét thông qua chủ trương đầu tư xây dựng một số đoạn đường bộ cao tốc trên tuyến Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017-2020. Theo đó, giai đoạn từ năm 2017-2020, Chính phủ kiến nghị đầu tư và đưa vào khai thác các đoạn: Cao Bồ (Nam Định) - Bãi Vọt (Hà Tĩnh), Cam Lộ (Quảng Trị) - La Sơn (Thừa Thiên - Huế), Nha Trang (Khánh Hòa) - Dầu Giây (Đồng Nai) và cầu Mỹ Thuận 2, với tổng chiều dài 654km, tổng mức đầu tư khoảng 118.716 tỷ đồng (Nhà nước hỗ trợ 55.000 tỷ đồng). Đáng chú ý, về mặt quy mô, Chính phủ lựa chọn phương án phân kỳ đầu tư với quy mô 4 làn xe, bề rộng nền đường 17 - 25m; riêng đoạn Cam Lộ - La Sơn đầu tư quy mô 2 làn xe, bề rộng nền đường 12m.
Ông Vũ Hồng Thanh, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Quốc hội (Cơ quan thẩm tra Tờ trình) cho biết, nhiều ý kiến đồng ý với đề xuất của Chính phủ theo phương án đầu tư giai đoạn phân kỳ có quy mô 4 làn xe, bề rộng nền đường 17 - 25m, nhưng yêu cầu phải bảo đảm đáp ứng các tiêu chí an toàn, hiện đại, đồng bộ vào quá trình vận hành và quản lý dự án, đồng thời đáp ứng nhu cầu vận tải trong ít nhất 20 năm tới.
“Trong điều kiện nguồn vốn đầu tư công còn hạn chế, phương án này có tính khả thi hơn”, ông Thanh nói và cho biết vẫn còn một số ý kiến đề nghị dự án cần thực hiện theo quy hoạch đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt có quy mô 4 làn xe với bề rộng nền đường là 24,75m và 6 làn xe với bề rộng nền đường là 32,25m theo mô hình đường cao tốc hoàn chỉnh có làn dừng xe khẩn cấp.
Liên quan đến vấn đề này, trao đổi với Báo Giao thông, ông Phạm Hữu Sơn, Tổng giám đốc Tổng công ty Tư vấn thiết kế GTVT (TEDI - tư vấn lập dự án) khẳng định: “Quy mô đầu tư giai đoạn phân kỳ đầu tư 4 làn xe, nền đường rộng 17-25m hoàn toàn phù hợp với quy định của Luật Giao thông đường bộ, tổ chức giao thông, vận hành khai thác đảm bảo đúng theo tiêu chuẩn đường cao tốc”.
Ông Sơn cho biết, theo quy hoạch phát triển mạng đường bộ cao tốc Việt Nam đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030 đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định 326 ngày 1/3/2016, tuyến cao tốc Bắc - Nam phía Đông có quy mô 4-6 làn xe, khu vực cửa ngõ các trung tâm kinh tế - chính trị lớn quy mô 8 làn xe. Trong quá trình lựa chọn quy mô phân kỳ đầu tư, Chính phủ đã nghiên cứu phương án đầu tư giai đoạn phân kỳ với quy mô 4 làn xe hoàn chỉnh, bề rộng nền đường tối thiểu 24,75m, nhưng mức vốn Nhà nước hỗ trợ riêng các đoạn đầu tư giai đoạn 2017-2020 lên tới khoảng 86.100 tỷ đồng.
Căn cứ nhu cầu vận tải, trong điều kiện nguồn lực Nhà nước còn khó khăn, để đảm bảo hiệu quả đầu tư theo đúng yêu cầu của Bộ Chính trị tại Kết luận số 19 ngày 5/10/2017, Chính phủ lựa chọn phương án phân kỳ đầu tư với quy mô 4 làn xe, bề rộng nền đường 17 - 25 m; riêng đoạn Cam Lộ (Quảng Trị) - La Sơn (Thừa Thiên - Huế) quy mô 2 làn xe, bề rộng nền đường 12m.
“Theo tính toán, quy mô giai đoạn phân kỳ đầu tư đáp ứng đầy đủ các tiêu chí hiện đại, đồng bộ và đáp ứng nhu cầu vận tải đến khoảng năm 2040, riêng đoạn Cam Lộ - La Sơn có thể đáp ứng nhu cầu vận tải khoảng năm 2030”, ông Sơn nói và cho biết, đối với cầu Mỹ Thuận 2 là công trình có kết cấu đặc biệt, việc phân kỳ đầu tư sẽ không hiệu quả nên đầu tư hoàn chỉnh theo quy mô quy hoạch 6 làn xe.
Nếu cao tốc Bắc - Nam hoàn thành, cả nước sẽ có 2.600 km đường cao tốc (Trong ảnh: Cao tốc Pháp Vân - Cầu Giẽ) - Ảnh: Tạ Tôn |
Đảm bảo hiện đại, đồng bộ, đáp ứng nhu cầu đến năm 2040
Phân tích về tính hiện đại của dự án, ông Sơn cho biết, trong lĩnh vực đường bộ ở Việt Nam cũng như các nước tiên tiến trên thế giới, tiêu chuẩn đường bộ cao tốc là công trình hiện đại nhất, thể hiện ở các tiêu chí như: Tổ chức giao thông một chiều, dải phân cách cứng, giao cắt khác mức, hệ thống chiếu sáng, các điểm dịch vụ dừng nghỉ, hệ thống thu phí kín, tốc độ lưu thông cao,...
“Những nội dung này đã được thiết kế đầy đủ, hoàn thiện trong giai đoạn phân kỳ đối với đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông”, ông Sơn nói và chia sẻ, kinh nghiệm ở một số quốc gia như: Mỹ, Đức, Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Malaysia cho thấy, việc phân kỳ đầu tư, điều chỉnh quy mô cao tốc trong giai đoạn quá độ là hiện tượng phổ biến, có tính quy luật. Cụ thể, một số quốc gia phát triển như: Đức, Thụy Điển, Ireland, Scotland,... đã xây dựng một số tuyến đường bán cao tốc khổ hẹp 3 làn hoặc 4 làn mà không có dải dừng xe khẩn cấp liên tục. Đặc biệt, ở Mỹ, số đường từ 8 làn xe trở lên chỉ chiếm 0,02% (đoạn ngoài đô thị) và 1,32% (đoạn qua khu đô thị).
Về tính đồng bộ và đáp ứng nhu cầu vận tải, ông Sơn cho biết, việc đầu tư đường bộ cao tốc Bắc - Nam được xem xét một cách tổng thể trong mối quan hệ chặt chẽ, đồng bộ giữa các phương thức vận tải đường bộ, đường sắt, hàng không, đường thủy, đặc biệt là tiến độ đầu tư đường sắt tốc độ cao,... đảm bảo kết nối với các tuyến quốc lộ, cảng biển, vùng kinh tế trọng điểm và các trung tâm kinh tế - chính trị.
“Việc triển khai đầu tư dự án dựa trên kết quả dự báo khoa học, khách quan về nhu cầu vận tải để lựa chọn các đoạn ưu tiên đầu tư và lựa chọn quy mô đầu tư phù hợp. Theo tính toán, quy mô phân kỳ đầu tư có thể đáp ứng nhu cầu vận tải đến khoảng năm 2040”, ông Sơn nói và cho biết thêm, để đảm bảo tầm nhìn dài hạn hơn, Chính phủ đã đề xuất phương án thực hiện cắm mốc lộ giới mỗi bên 17m từ phạm vi đất giải phóng mặt bằng để phục vụ mở rộng trong trường hợp cần thiết phải điều chỉnh quy hoạch với tầm nhìn dài hạn hơn, lên 6-10 làn xe.
Ông Nguyễn Danh Huy, Vụ trưởng Vụ Đối tác công - tư (PPP - Bộ GTVT) cũng khẳng định, Bộ GTVT lựa chọn quy mô 4 làn xe dựa trên nghiên cứu của JICA trên cơ sở nghiên cứu, phân tích tất cả các loại hình vận tải, từ đó phân bổ cho từng loại hình vận tải để tránh lãng phí. Theo ông Huy, trong chiến lược phát triển đường sắt Việt Nam được Chính phủ phê duyệt, đến năm 2030 sẽ đưa tuyến đường sắt tốc độ cao Hà Nội - Vinh, TP Hồ Chí Minh - Nha Trang vào khai thác.
“Trong khoảng cách dưới 300km, đi đường sắt tốc độ cao chắc chắn sẽ thuận tiện hơn đường bộ, khi đó nhu cầu đường bộ sẽ giảm xuống. Đây là lý do chính khiến Bộ GTVT quyết định chỉ làm 4 làn xe”, ông Huy nói và cho biết, thực tế, ở nước ngoài, đường liên tỉnh, liên bang cũng chỉ làm 4 - 6 làn xe, chỉ có đường kết nối giữa các đô thị lớn trong bán kính khoảng 100-200 km mới có đường 10 làn xe, bởi khi nhu cầu lên 10-12 làn xe, sẽ phải chuyển sang phương thức vận tải khác phù hợp hơn.
ĐBQH Hà Sỹ Đồng (Đoàn Quảng Trị): Đầu tư cao tốc Bắc - Nam là rất cần thiết để phát triển KT - XH. Cho dù ngân sách hạn hẹp, áp lực nợ công lớn nhưng vẫn cần phải làm ngay cao tốc Bắc - Nam. Chúng ta phải mạnh dạn, có thể chấp nhận nợ công chạm trần để đầu tư cho hạ tầng, phát triển kinh tế - xã hội, rồi sau đó có thể thu hồi vốn trong thời gian nhất định. Nếu chúng ta làm tốt, làm đúng định hướng, bài bản, quy mô, dự án cao tốc Bắc - Nam chắc chắn sẽ giúp tạo “cú hích” phát triển kinh tế trong thời gian tới.
ĐBQH Trần Hoàng Ngân (Đoàn TP.HCM): Đường có thông thì tài chính mới thông, tiết kiệm được chi phí xã hội, chi phí vận chuyển, tạo ra các hoạt động thương mại dịch vụ, lưu thông hàng hóa. Các hình thức xã hội hóa trong đầu tư là rất cần thiết. BOT là một chủ trương rất đúng mà nhiều quốc gia áp dụng, vấn đề là triển khai giám sát làm sao để tránh việc lợi dụng, làm méo mó, sai lệch đi chủ trương, chính sách đúng đắn của chúng ta. Nên làm cao tốc Bắc - Nam cũng cần lưu ý việc này, cần tăng cường giám sát.
ĐBQH Phạm Quang Dũng (Đoàn Hà Nam): Chủ trương đầu tư cao tốc Bắc - Nam là hoàn toàn đúng, lựa chọn phân kỳ đầu tư cũng cần thiết. Tuy nhiên, lo ngại lớn nhất là liệu Nhà nước có đủ nguồn lực đồng hành cùng doanh nghiệp. Theo Tờ trình của Chính phủ, ngoài khoản 55 nghìn tỷ từ TPCP, nguồn vốn nhà đầu tư khoảng 63,7 nghìn tỷ đồng trong đó vốn chủ sở hữu khoảng 12,7 nghìn tỷ đồng, vốn vay khoảng 50,9 nghìn tỷ đồng). Điều này có nghĩa khoản 50,9 nghìn tỷ đồng sẽ phải vay ngân hàng. Tuy nhiên, tín dụng trong nước nhất là vốn trung hạn và dài hạn ở mức độ đáp ứng nào đó chứ không thể đáp ứng toàn bộ. Về khả năng huy động nguồn vốn từ nhà đầu tư nước ngoài, Chính phủ cần đưa cơ chế, chính sách, pháp luật ổn định để nhà đầu tư có niềm tin. Thanh Bình - Hoài Thu (Ghi) |
Bình luận bài viết (0)
Gửi bình luận