Ngày 8/11, Bộ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Hồng Diên đã ký quyết định điều chỉnh giá bán lẻ điện bình quân từ 1.920,37 lên 2.006,79 đồng/kWh, tương đương tăng 4,5% (chưa bao gồm thuế giá trị gia tăng).
Quyết định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 9/11. Như vậy, đây là lần tăng giá điện thứ 2 trong năm nay, sau khi tăng đợt 1 vào ngày 4/5 mức 3%.
Trước đó, EVN tính toán giá thành sản xuất điện năm 2023 khoảng 2.098 đồng/kWh, cao hơn giá bán lẻ điện bình quân khoảng 178 đồng/kWh. Giá này là đã nhờ hỗ trợ một phần từ các biện pháp tiết kiệm chi phí của EVN.
Năm nay, giá điện đã tăng thêm 3% từ ngày 4/5 sau khi giữ giá suốt 4 năm (từ tháng 3/2019). Tuy nhiên, việc tăng này chỉ giúp doanh thu cả năm 2023 của EVN tăng thêm khoảng 8.000 tỷ đồng. Do đó, EVN vẫn phải tiếp tục đối mặt với rất nhiều khó khăn trong cân bằng tài chính trước diễn biến giá nhiên liệu biến động như hiện nay.
Nguyên nhân là do trong cơ cấu giá thành sản xuất điện, giá thành khâu phát điện hiện chiếm tới 82,8% giá thành nên những biến động của giá thành khâu phát điện ảnh hưởng rất lớn đến giá thành sản xuất điện.
Theo cập nhật từ Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), giá nhiên liệu các tháng vừa qua của năm 2023 giảm so với năm 2022, nhưng vẫn ở mức cao so với giai đoạn các năm 2020-2021. Cụ thể, giá than nhập gbNewC tăng 2,97 lần so với năm 2020, tăng 1,3 lần so với năm 2021; giá dầu HSFO tăng 1,86 lần so với năm 2020 và tăng 1,13 lần so với năm 2021.
Các thông số đầu vào mặc dù đã giảm so với năm 2022 nhưng vẫn tiếp tục duy trì ở mức cao so với các năm trước. Cụ thể, giá than nhập khẩu NewC Index dự kiến năm 2023 tăng 186% so với 2020 và 25% so với năm 2021. Còn than pha trộn mua từ Tập đoàn Than khoáng sản Việt Nam và Tổng công ty Đông Bắc cũng có mức tăng rất cao so với năm 2021.
Mức tăng giá than pha trộn bình quân của TKV bình quân dự kiến 2023 là từ 29,6% đến 46% (tuỳ từng chủng loại than) so với giá than áp dụng năm 2021. Còn mức tăng giá than pha trộn bình quân dự kiến 2023 của Tổng công ty Đông Bắc từ 40,6% đến 49,8% (tuỳ loại than) so với giá than năm 2021.
Do khí Nam Côn Sơn suy giảm sản lượng mạnh nên các nhà máy nhiệt điện khí (Phú Mỹ 1, Phú Mỹ 2.1, Phú Mỹ 2.1 mở rộng, Phú Mỹ 4, Nhơn Trạch 1&2 và Bà Rịa) tiếp nhận nhiều khí Hải Thạch - Mộc Tinh, Sao Vàng - Đại Nguyệt và khí Đại Hùng, Thiên Ưng có giá cao, đặc biệt khí Thiên Ưng, Sao Vàng - Đại Nguyệt có giá rất cao.
Những yếu tố trên khiến giá thành các nguồn nhiệt điện than và tua bin khí tăng rất cao - trong khi các nhà máy nhiệt điện than và khí chiếm tỷ trọng sản lượng điện phát lên tới 55% (năm 2023) tổng sản lượng điện phát toàn hệ thống.
Bình luận bài viết (0)
Gửi bình luận