Sáng 31/5, Báo Thanh niên tổ chức hội thảo "Xóa trắng cao tốc - phát huy lợi thế Đồng bằng sông Cửu Long”.
Hội thảo có sự tham dự của Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Duy Lâm, lãnh đạo chính quyền các tỉnh ĐBSCL, các chuyên gia kinh tế hàng đầu Việt Nam và nhiều doanh nghiệp lớn trong lĩnh vực xây dựng hạ tầng giao thông trên cả nước.
Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Duy Lâm phát biểu tại hội thảo.
Hạ tầng giao thông hạn chế, chưa phát huy hết lợi thế
Phát biểu tại hội thảo, Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Duy Lâm cho biết, ĐBSCL gồm 13 tỉnh, thành phố trực thuộc T.Ư, có vai trò, vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng; là một trong những vùng kinh tế trọng điểm với nhiều tiềm năng và lợi thế, đặc biệt về nông nghiệp, thủy hải sản và du lịch.
Sau khi triển khai Nghị quyết 21 của Bộ Chính trị năm 2003, hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông ĐBSCL đã có sự thay đổi rõ rệt.
Về đường thủy nội địa, đã hoàn thành nâng cấp 6 tuyến vận tải thủy chính kết nối TP.HCM và Đông Nam Bộ với vùng ĐBSCL, nâng cấp giai đoạn 1 kênh Chợ Gạo.
Hệ thống đường bộ đang được đầu tư với chiều dài khoảng 2.688 km, tăng 52% so với năm 2002, trong đó nhiều công trình cầu lớn đã được xây dựng góp phần kết nối thông suốt đôi bờ sông Tiền, sông Hậu (như Cầu Mỹ Thuận, Cầu Vàm Cống, Cầu Cao Lãnh, Cầu Cần Thơ, Cầu Rạch Miễu…); 100% các xã có đường ô tô đến trung tâm.
Đặc biệt, chương trình xóa cầu “khỉ” đã được thực hiện trong suốt thời gian qua với nhiều nguồn vốn khác nhau.
Về hàng hải, đã hoàn thành đầu tư 12 cảng biển, 40 bến cảng, 7,6 km cầu cảng với tổng công suất thiết kế khoảng 31 triệu tấn/năm.
Về hàng không, đã hoàn thành đầu tư, nâng cấp 4 cảng hàng không trong khu vực bao gồm Cần Thơ, Phú Quốc, Cà Mau và Rạch Giá với tổng công suất 7,45 triệu hành khách/năm và 12.000 tấn hàng hóa/năm phục vụ nhu cầu vận tải, kết nối trực tiếp với các tỉnh thành trong nước và quốc tế.
Tuy nhiên, Thứ trưởng Nguyễn Duy Lâm cũng thẳng thắn nhìn nhận, tốc độ tăng trưởng kinh tế vùng chưa cao, chưa phát huy và khai thác đúng tiềm năng và lợi thế tự nhiên của khu vực, đời sống người dân còn khó khăn. Tính kết nối nội vùng, giữa vùng với TP.HCM và vùng Đông Nam bộ còn hạn chế.
“Một trong những nguyên nhân quan trọng là hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông còn hạn chế, đặc biệt là hệ thống đường bộ cao tốc, chưa đáp ứng được nhu cầu vận tải với khối lượng lớn, tốc độ nhanh, an toàn.
Đến nay, trong toàn vùng mới hoàn thành khoảng 91 km đường bộ cao tốc (đoạn TP. HCM - Trung Lương - Mỹ Thuận) trên tổng số 1.239 km của cả nước, chiếm 7%”, Thứ trưởng Lâm nhìn nhận.
Toàn vùng ĐBSCL hiện có 91km đường cao tốc Trung Lương - Mỹ Thuận
Đến 2030, ĐBSCL sẽ có 1.180 km đường bộ cao tốc
Theo Thứ trưởng, nguyên nhân chủ yếu do nguồn lực đầu tư cho kết cấu hạ tầng giao thông cho khu vực tuy đã được Đảng, nhà nước quan tâm bố trí nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu do điều kiện địa hình bị chia cắt, nền địa chất yếu, ảnh hưởng nghiêm trọng bởi biến đổi khí hậu, nước biển dâng nên suất đầu tư xây dựng lớn.
Theo tính toán, suất đầu tư đường bộ cao tốc tại khu vực ĐBSCL cao hơn 1,3 -1,5 lần so với các khu vực khác. Đây cũng là một phần lý do khiến số lượng công trình được đầu tư chưa được nhiều, đồng thời khả năng kêu gọi nguồn lực từ xã hội bị hạn chế.
Nhấn mạnh đến các chủ trương của Đảng, Quốc hội, Thứ trưởng Lâm cho biết, ngay từ đầu nhiệm kỳ Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã hết sức quan tâm, quyết liệt chỉ đạo xây dựng quy hoạch, kế hoạch, các cơ chế chính sách có tính đột phá, tập trung ưu tiên bố trí mọi nguồn lực nhằm phát triển kết cấu hạ tầng giao thông của khu vực ĐBSCL.
Trên cơ sở đó, Bộ GTVT đã rà soát, đánh giá và căn cứ điều kiện đặc thù, lợi thế của các phương thức vận tải của từng vùng, miền trong đó có ĐBSCL, triển khai lập đồng thời 5 quy hoạch ngành quốc gia.
Trong đó, riêng về quy hoạch đường bộ cao tốc đã hoạch định đến năm 2050 toàn vùng ĐBSCL có khoảng 1.180 km/9.014 km của cả nước, trong đó đến năm 2030 có khoảng 760 km và sau năm 2030 tiếp tục đầu tư thêm khoảng 420 km.
Riêng đối với hệ thống đường bộ cao tốc, Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị cũng xác định đến năm 2030, hoàn thành hệ thống đường bộ cao tốc kết nối vùng với vùng Đông Nam bộ, hệ thống cảng biển và các cửa khẩu quốc tế gồm các tuyến cao tốc Bắc - Nam phía đông, Bắc - Nam phía tây, TP.HCM - Sóc Trăng, Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng, Hà Tiên - Rạch Giá - Bạc Liêu, Hồng Ngự - Trà Vinh.
Đến năm 2030, vùng ĐBSCL sẽ hoàn thành khoảng 1.180 km đường bộ cao tốc.
Theo Thứ trưởng, nhu cầu vốn để hoàn thành hệ thống cao tốc giai đoạn 2026 - 2030 rất lớn, ngoài ngân sách trung ương, huy động nguồn lực xã hội, các địa phương có tuyến cao tốc đi qua cần ưu tiên, phân bổ ngân sách địa phương, đồng thời trực tiếp quản lý, thực hiện đầu tư các tuyến cao tốc qua địa bàn.
Bên cạnh đó, do nhiều dự án lớn sẽ triển khai cùng một thời điểm dẫn đến nhu cầu vật liệu xây dựng rất lớn, các địa phương tạo điều kiện về nguồn vật liệu, đặc biệt là đất và cát đắp nền đường.
“Công tác giải phóng mặt bằng quyết định đến tiến độ triển khai thực hiện dự án, do vậy cần phải có sự vào cuộc của cả hệ thống chính trị và sự ủng hộ, đồng thuận của người dân tại mỗi địa phương”, Thứ trưởng Lâm nhấn mạnh.
Cũng tại hội thảo, các đại biểu tập trung thảo luận một số nội dung khác như khắc phục việc khan hiếm vật liệu làm cao tốc bằng cách nghiên cứu vật liệu thay thế; tăng cường kiểm soát để tránh vật liệu tăng giá vô tội vạ...
Theo kế hoạch, giai đoạn 2021- 2025, sẽ cơ bản hoàn thành thêm khoảng 460 km đường bộ cao tốc, nâng tổng số lên khoảng 550 km cao tốc trong vùng ĐBSCL.
Cụ thể, hoàn thành tuyến cao tốc Mỹ Thuận - Cần Thơ và cầu Mỹ Thuận 2 (30 km, tổng mức đầu tư khoảng 9.800 tỉ đồng); triển khai và cơ bản hoàn thành tuyến Cần Thơ - Cà Mau với chiều dài 109 km, tổng mức đầu tư trên 27.000 tỉ đồng. Các tuyến cao tốc này thuộc trục cao tốc Bắc - Nam phía đông.
Chính phủ cũng đang chuẩn bị trình Quốc hội khóa XV chủ trương đầu tư tuyến Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng với chiều dài 188 km, tổng mức đầu tư 44.691 tỉ đồng. Bộ GTVT đang lập dự án đầu tư tuyến Mỹ An - Cao Lãnh dài 26 km, tổng vốn 4.770 tỉ đồng, dự kiến sẽ khởi công trong năm 2023. Tuyến Cao Lãnh - An Hữu (27 km), tổng vốn khoảng 5.886 tỉ đồng.
Tiếp tục đầu tư một số hạng mục để tổ chức khai thác đoạn Cao Lãnh - Lộ Tẻ - Rạch Sỏi (80 km) theo tiêu chuẩn đường cao tốc.
Giai đoạn 2026 – 2030, tiếp tục hoàn thành khoảng 637 km với nhu cầu vốn ước tính trên 200.000 tỉ đồng gồm cầu Cần Thơ 2 và đường dẫn 2 đầu cầu dài 15 km, đoạn Chơn Thành - Đức Hòa (qua Long An dài 21 km), đoạn Đức Hòa - Mỹ An dài 74 km, đoạn Hà Tiên - Rạch Giá - Bạc Liêu dài 212 km, đoạn An Hữu - Trà Vinh dài 90 km, đoạn Trà Vinh - Hồng Ngự dài 68 km và tuyến cao tốc từ TP.HCM đến Sóc Trăng dài 150 km.
Bình luận bài viết (0)
Gửi bình luận