Đầu tư công đóng góp rất lớn vào tăng trưởng, phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên, tình trạng chậm giải ngân đầu tư công thời gian qua đã tạo ra nút thắt cổ chai, gây ra rất nhiều hệ lụy. Vì sao giải ngân đầu tư công mãi chậm, có tiền không tiêu được, trong khi đó là tiền đi vay? Báo Giao thông trao đổi với ông Bùi Đức Thụ, thành viên Hội đồng Tư vấn chính sách tài chính, tiền tệ Quốc gia nhằm làm rõ hơn vấn đề này.
Bệnh “sợ trách nhiệm” trước thềm đại hội
Với khoảng 700 nghìn tỷ đồng vốn đầu tư công cần giải ngân trong năm 2020, ngay từ đầu năm và cho đến thời điểm này, Chính phủ đã đưa ra nhiều giải pháp quyết liệt để đốc thúc các bộ, ngành, địa phương. Tuy nhiên, đến nay tỷ lệ giải ngân vẫn không đạt yêu cầu. Theo ông, câu chuyện “có tiền không tiêu được” sẽ gây ra hệ lụy gì, trong khi nền kinh tế đang rất cần được bơm vốn?
Kết quả giải ngân vốn đầu tư công trong 6 tháng đầu năm 2020 chậm kéo theo rất nhiều hệ lụy. Trước hết, cơ sở hạ tầng hình thành chậm đồng nghĩa với những nút thắt của nền kinh tế không giải quyết được. Sự yếu kém của cơ sở hạ tầng dẫn đến chi phí hoạt động của doanh nghiệp sẽ tăng lên, giảm sức cạnh tranh.
Giải ngân chậm cũng làm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng vốn ngân sách trong điều kiện cân đối ngân sách sau dịch bệnh hết sức khó khăn. Nhà nước phải chấp nhận đi vay, nhưng vay về rồi mà lại không tiêu được. Đáng nói, nguồn vay ngoài nước của chúng ta hiện chỉ chiếm 1/3 số bù đắp thu, còn lại chủ yếu là nguồn vay trong nước. Điều này đồng nghĩa ảnh hưởng tới số vốn cung ứng từ hệ thống các tổ chức tín dụng cho nền kinh tế nhằm kích thích sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng.
Phải khẳng định giải ngân đầu tư công chậm là căn bệnh nan y đã diễn ra trong hàng chục năm qua. Những năm gần đây tuy tình hình có khá hơn nhưng số chuyển nguồn cũng xấp xỉ 25%, có nghĩa 1/4 vốn đầu tư công không tiêu được mà phải chuyển sang năm sau.
Là người từng trực tiếp khảo sát các dự án đầu tư công, theo ông đâu là những nguyên nhân chính dẫn tới chậm giải ngân?
Phải thừa nhận năm nay các dự án đầu tư công còn chịu ảnh hưởng của dịch bệnh, phải thực hiện giãn cách xã hội. Tuy nhiên, hàng loạt nguyên nhân cố hữu, do chủ quan không thể bỏ qua. Trước hết là do công tác chuẩn bị dự án của chúng ta chưa tốt.
Luật Đầu tư công đã đề ra quy trình, thủ tục từ khảo sát, lập quy hoạch, thiết kế… nhưng qua điều tra giám sát của chúng tôi, nhiều bộ, ngành, địa phương cứ đưa danh mục đầu tư công vào kế hoạch 5 năm và từng năm nhưng đến khi triển khai, giao vốn rồi thì hồ sơ lại không đủ thủ tục, không thể triển khai được.
Do đó cần khắc phục, chấn chỉnh lại công tác lập kế hoạch đầu tư công hàng năm. Chỉ đưa vào kế hoạch đầu tư công những dự án nào có đầy đủ thủ tục, xếp theo thứ tự ưu tiên, cân đối được nguồn vốn thì mới đưa vào. Trường hợp phát hiện khả năng không làm được thì phải cắt, điều chuyển ngay.
Thứ hai là công tác phân bổ và giao kế hoạch vốn của chúng ta còn chậm. Quốc hội dự toán ngân sách Nhà nước và biểu quyết thông qua trước ngày 15/11; Chính phủ cũng giao vốn cho địa phương trước ngày 31/11. Nhưng khi về tới các bộ, địa phương phân bổ vốn đến từng dự án, công trình cụ thể, hầu hết lại không đúng quy định, toàn giao chậm.
Cá biệt có bộ, ngành giao đến chục lần mới hết lượng vốn đầu tư; Có những địa phương đến quý 4 rồi, thậm chí sang tháng 11 mới giao vốn… thì không thể nào triển khai, giải ngân được!
Dù Quốc hội đã sửa luật, đơn giản hóa thủ tục nhưng quản lý vốn đầu tư công của chúng ta vẫn nhiêu khê, nhiều thủ tục, nhiều quy trình phức tạp. Luật Đầu tư công, Xây dựng, Đất đai… nhiều quy định còn chưa cụ thể, chưa thống nhất, thiếu sự đồng bộ. Từ thời hạn quy trình thủ tục tới đối tượng đầu tư vốn đầu tư công… mỗi luật lại quy định một kiểu.
Liên quan tới công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, thống kê cho thấy có tới 2/3 dự án ách tắc, chậm tiến độ bởi nguyên nhân này. Vướng mắc này sẽ còn kéo dài khi chính sách đền bù, thu hồi đất đối với người dân còn chưa phù hợp với tình hình thực tiễn, gây mâu thuẫn về quyền lợi.
Mặt khác, nhiều doanh nghiệp trúng thầu hoặc được chỉ định thầu nhưng triển khai rất chậm. Lý do là do năng lực tài chính của các doanh nghiệp yếu kém, sử dụng vốn vay là chính. Do đó, dù vốn đã được đáp ứng đầy đủ nhưng lại lợi dụng, lấy tiền tạm ứng để quay vòng ở các dự án khác.
Cuối cùng không thể nhắc tới nguyên nhân “môi trường” của năm 2020. Có thể nói, năm nay là năm của đại hội Đảng bộ các cấp, công tác đánh giá cán bộ các cấp là nhiệm vụ trọng tâm. Do đó, nhiều lãnh đạo quản lý rất “ngại” năng động, vận dụng sáng tạo để giải quyết công việc vì sợ trái pháp luật, đe dọa đến sinh mạng chính trị. Đây là hiện tượng “sợ trách nhiệm trước thềm đại hội”.
Đầu năm “đủng đỉnh”, cuối năm có tiêu hết tiền?
Chính phủ đề cao trách nhiệm người đứng đầu trong việc giải ngân vốn đầu tư công tuy nhiên nếu vi phạm thì xử ai, xử thế nào nếu vi phạm vẫn là câu hỏi lớn?
Quản lý sử dụng vốn đầu tư công phải được coi là nhiệm vụ chính trị. Do đó, nếu không hoàn thành kế hoạch, để ngưng trệ dự án, sẽ bị coi là khuyết điểm để đánh giá trong công tác sử dụng cán bộ. Thậm chí, nếu vi phạm nặng có thể khởi tố, xử lý hình sự.
Quy định là vậy nhưng thực tế, chế tài xử lý tội danh này lại đang lẩn khuất ở trong các bộ luật chứ không thuộc nhóm tội danh cụ thể. Tuy nhiên, theo tôi, chỉ cần làm tốt công tác đánh giá cán bộ thì công tác giải ngân chắc chắn cũng được chuyển đổi mạnh.
Tuy nhiên, vừa qua chúng ta làm đánh giá theo chế độ tập thể, cấp nào đánh giá cấp đó, cấp dưới đánh giá cấp trên, nhân viên đánh giá thủ trưởng dẫn tới hình thức, không thực chất. Bình bầu kiểm điểm ở cơ sở thì không bao giờ phát hiện điều gì, tới khi thanh kiểm tra lại ra sai phạm, thậm chí khởi tố lãnh đạo…
Với tình trạng “đầu năm đủng đỉnh, cuối năm quyết liệt”, ông dự báo kết quả giải ngân năm nay sẽ ra sao?
Nói đầu năm giải ngân “đủng đỉnh” quả không sai. Năm nào cũng thế, các đơn vị thường dành những tháng đầu năm để chuẩn bị dự án. Trong khi đó đây lại là khâu chiếm rất nhiều thời gian. Tại sao không chuẩn bị trước 1 năm để tới lúc giao kế hoạch vốn chỉ việc đấu thầu, đưa vào triển khai ngay? Đáng nói, có những dự án từ từ lúc ghi được vốn phải mất hàng năm trời.
Thông thường, 6 tháng cuối năm khi dự án đã vào guồng, thì tiến độ cũng được đẩy lên. Hơn nữa, theo quy định, nếu không hoàn thành kế hoạch vốn trong năm dù vẫn được chuyển nguồn nhưng sẽ ảnh hưởng tới việc lập kế hoạch vốn cho năm sau, do đó các chủ đầu tư phải làm hết sức quyết liệt. Trong bối cảnh này, dù tình hình giải ngân sẽ khá hơn nhưng với 700 nghìn tỷ đồng của năm 2020 và số chuyển nguồn từ những năm trước, vẫn rất khó có thể giải ngân hết.
Trong bối cảnh gấp rút, liệu có thể đưa ra quy định linh hoạt trong hoạt động quản lý về sử dụng vốn đầu tư công không, thưa ông?
Khi đã có luật thì không ai được phép đứng trên hay đứng ngoài luật, phải tuân thủ một cách vô điều kiện. Vấn đề là khi tuân thủ pháp luật lại gây khó khăn kéo dài trì trệ, thì cần phải tổng kết sớm để sửa đổi. Quốc hội đã cho phép dùng 1 luật để sửa nhiều luật, dùng 1 văn bản sửa nhiều văn bản liên quan; Trong tình trạng khẩn cấp có thể áp dụng quy trình rút gọn, không mất nhiều thời gian.
Tuy nhiên, trước những vướng mắc thể chế, đã đến lúc chúng ta cần xem xét xảy ra do cấp nào ban hành, thì người đứng đầu cấp đó phải chịu trách nhiệm. Có như vậy mới mong đẩy mạnh việc cải cách thể chế hành chính trong thời gian tới.
Cảm ơn ông!
Thứ trưởng Bộ KH&ĐT Trần Quốc Phương:
Quy định hướng dẫn chưa thống nhất
Khác với những năm trước, việc giao kế hoạch đầu tư vốn ngân sách năm 2020 đã được giao toàn bộ trong 1 lần trước ngày 30/11/2019. Tuy vậy, hiện nay mới có 35 bộ, cơ quan Trung ương và 22 địa phương giao chi tiết hết 100% kế hoạch đầu tư vốn cho các dự án để giải ngân vốn.
Việc giải ngân vốn đầu tư chậm do nhiều nguyên nhân cố hữu từ lâu như: Công tác giải phóng mặt bằng, đấu thầu, thay đổi chính sách và quy định, năng lực chủ đầu tư, nhà thầu, việc tránh thanh toán vốn nhiều lần, chờ thanh toán một lần của cả chủ đầu tư, ban quản lý dự án và cả nhà thầu, tính chất đặc thù của chi đầu tư so với chi thường xuyên… Bên cạnh đó, niên độ ngân sách Nhà nước là 1 năm, giao kế hoạch vốn đầu năm, quyết toán cuối năm, nên kế hoạch thực hiện, thi công xây dựng các công trình, dự án cũng phụ thuộc vào kế hoạch vốn.
Sau khi được giao kế hoạch đầu năm, các cấp, các ngành mới bắt tay vào triển khai các hoạt động chuẩn bị đầu tư, xây dựng kế hoạch đấu thầu, kế hoạch thi công… nên mất nhiều thời gian để có khối lượng thanh toán, kế hoạch đấu thầu được phê duyệt đầu năm thì phải đến giữa năm mới lựa chọn được nhà thầu và ký hợp đồng, việc tạm ứng vốn hợp đồng, hay giải ngân khối lượng thực hiện thường xảy ra vào thời điểm cuối năm.
Bên cạnh ảnh hưởng từ dịch Covid-19, năm 2020 còn là năm cuối của kế hoạch đầu tư công trung hạn nên các bộ, ngành và địa phương vừa hoàn thành dự án, vừa hoàn tất thủ tục dự án khởi công mới, vừa chuẩn bị dự án cho giai đoạn 2021 - 2025. Theo đó, xuất hiện tình trạng chậm ban hành đơn giá, định mức xây dựng cho các công việc đặc thù, chuyên ngành làm cơ sở để xác định tổng mức đầu tư, dự toán xây dựng và quản lý chi phí.
Một số quy định hướng dẫn chưa thống nhất nên gây ra vướng mắc trong quá trình triển khai thực hiện dự án, như quy định về chuyển tiếp; Một số quy định về thủ tục điều chỉnh dự toán được siết chặt hơn, như cần phải có ý kiến chấp thuận của người quyết định đầu tư thì chủ đầu tư mới được điều chỉnh dự toán, đã gây khó khăn và kéo dài thời gian điều chỉnh...
Qua đây, Bộ KH&ĐT kiến nghị các bộ, ngành, địa phương hoàn thành việc giao kế hoạch vốn chi tiết cho các chương trình, dự án để giải ngân trước ngày 31/7; Chủ động ban hành kế hoạch và giải pháp cụ thể tháo gỡ khó khăn; Trường hợp giải ngân không đạt tiến độ, xem xét điều chuyển vốn cho dự án có tiến độ giải ngân tốt, có nhu cầu bổ sung vốn để đẩy nhanh tiến độ thực hiện dự án; xem xét điều chuyển chủ đầu tư dự án theo thẩm quyền.
Cụ thể, Bộ Tài chính cần đẩy nhanh ứng dụng công nghệ thông tin trong quá trình kiểm soát chi, xử lý đơn rút vốn, giải ngân vốn ODA, vay ưu đãi của các nhà tài trợ nước ngoài để rút ngắn thời gian, không để tồn đọng hồ sơ mà không có lý do.
Bộ Xây dựng báo cáo Chính phủ tháo gỡ những vướng mắc, khó khăn quy định trong Nghị định số 68/2019/NĐ-CP về quản lý chi phí đầu tư xây dựng, trong đó rà soát các quy định về sử dụng dự phòng dự án, cập nhật giá gói thầu… theo hướng giao chủ đầu tư chịu trách nhiệm điều chỉnh đảm bảo không vượt tổng mức đầu tư dự án.
Hoàng Ngân (Ghi)
Bình luận bài viết (0)
Gửi bình luận