Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể phát biểu chỉ đạo tại cuộc họp
Quy hoạch tổng thể phải đi kèm với phân tích, dự báo chi tiết
Hôm nay (16/3), Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thể chủ trì cuộc họp rà soát 5 quy hoạch chuyên ngành GTVT giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050.
“Đối với cảng định hướng trung chuyển quốc tế như Lạch Huyện, cơ quan chức năng phải dự báo lưu lượng hàng hóa qua cảng Lạch Huyện trong giai đoạn tới xác định phương án giao thông kết nối khi sản lượng hàng hóa tăng lên. Từ đó, phối hợp với các ngành liên quan xây dựng quy hoạch ngay từ đầu”, Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thể.
Bộ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Văn Thể cho rằng, Quy hoạch kết cấu hạ tầng đường thủy thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 chưa có nhiều đột phá, chưa có sự phân tích, dự báo chi tiết về khả năng thu hút hàng hóa của cảng đường thủy, cảng cạn, vận tải ven bờ trên các tuyến hành lang.
“Quy hoạch cũng chưa chỉ ra được vấn đề kết nối giữa phương thức đường thủy nội địa (ĐTNĐ) với đường bộ, đường sắt, cảng biển thế nào, những điểm nghẽn nào đang tồn tại.
Quy hoạch phải có đánh giá cụ thể tình hình vận tải từng mặt hàng trên tuyến ĐTNĐ, làm rõ vận tải hàng rời đang yếu chỗ nào? Tuyến vận tải nào có nhu cầu thực sự về đầu tư vận chuyển container? Cơ chế đầu tư như thế nào? Cảng nào cần quy hoạch thêm. Tất cả những vấn đề đó nếu không được đánh giá chi tiết thì rất khó kêu gọi đầu tư”, Bộ trưởng nhấn mạnh.
Cũng theo Bộ trưởng Nguyễn Văn Thể, trong quy hoạch ĐTNĐ, luồng tuyến chỉ là thứ yếu. “Vấn đề quan trọng là phải xác định các tuyến vận tải cần hình thành, loại hàng hóa cần được ưu tiên. Từ đó, đánh giá về nguồn hàng, đề xuất chính sách phát triển cảng, phân định rõ hạng mục nào nhà nước cần làm, hạ tầng nào cần huy động nguồn vốn xã hội hóa, cơ chế thu hút đầu tư nào cần triển khai (ví dụ: doanh nghiệp đầu tư cầu cảng, phương tiện sẽ được tiếp cận nguồn vốn vay ưu đãi)”, Bộ trưởng gợi ý.
Đối với Quy hoạch phát triển tổng thể hệ thống cảng biển Việt Nam, Bộ trưởng đánh giá cao Cục Hàng hải VN và đơn vị tư vấn đã đưa ra những phân tích, kiến nghị có điểm nhấn. Tuy nhiên, hiện nay, có những khu vực cảng tăng trưởng cao (Hải Phòng, TP Hồ Chí Minh), một số khu vực lại giảm.
"Từ thực tế đó, đơn vị tư vấn cần đánh giá cụ thể hơn nữa hiện trạng, phải nêu được định hướng sắp tới đà tăng của những khu vực có nhiều tiềm năng như thế nào. Nguyên nhân hàng hóa qua các khu vực (2,3,4 theo quy hoạch cũ) chưa đúng với dự báo trước đó là do đâu”, Bộ trưởng nói.
Dành sự quan tâm đặc biệt đến khu vực ĐBSCL, theo Bộ trưởng, khu vực này dù có nguồn hàng nông sản dồi dào nhưng hệ thống cảng biển còn manh mún, hầu hết phải lên đường bộ đi tới TP.HCM để xuất khẩu.
"Vì vậy, trọng tâm của miền Tây trong giai đoạn sắp tới là phải điều chỉnh quy hoạch, xây dựng cơ chế, tạo điều kiện hình thành cảng cửa ngõ cho khu vực ĐBSCL để tạo thuận lợi giao thương cho hàng hóa", Bộ trưởng yêu cầu.
Lãnh đạo Bộ GTVT yêu cầu các quy hoạch cần phân tích cặn kẽ thực trạng, cơ hội, giải pháp phát triển trước khi trình Chính phủ xem xét - Ảnh minh họa
Hàng hải, đường thủy nội địa cơ bản đạt mục tiêu quy hoạch cũ
Trước đó, báo cáo quy hoạch kết cấu hạ tầng đường thủy, đại diện Tư vấn lập quy hoạch cho biết, hiện tại, đã có 26.500km đường thủy được khai thác, trong đó, Cục Đường thủy nội địa Việt Nam quản lý hơn 7.100km, có sự liên kết tương đối.
Về kết cấu hạ tầng, hiện tại, cả nước có 292 cảng thủy nội địa với 265 cảng trên tuyến TƯ. Dù là ngành kinh tế lợi thế về tận dụng điều kiện tự nhiên, vận chuyển hàng siêu trường, siêu trọng với giá thành vận tải rẻ nhất.
Tuy nhiên, do hệ thống luồng tuyến còn nhiều hạn chế, chưa hình thành được các trung tâm trung chuyển hàng hóa, hành khách lớn, giai đoạn 2010 - 2019, vận tải ĐTNĐ mới chỉ đảm nhận được hơn 7% khối lượng vận tải hàng hóa.
“Trên cơ sở đó, quy hoạch lần này đặt ra mục tiêu sản lượng vận tải hàng hóa đạt từ 686 - 730 triệu tấn/năm, chiếm hơn 15,5% thị phần toàn ngành. Tốc độ tăng trưởng bình quân đạt khoảng 9%/năm. Khối lượng luân chuyển đạt từ 114.200 - 153.520 triệu tấn/km, chiếm hơn 26% thị phần toàn ngành.
Đồng thời, duy trì thị phần vận tải hành khách đạt hơn 418 triệu lượt/năm, chiếm khoảng 4% thị phần, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt hơn 5%/năm”, đại diện này thông tin.
Về lĩnh vực hàng hải, ông Lê Tấn Đạt, Phó TGĐ Công ty CP Tư vấn xây dựng công trình hàng hải cho biết, năm 2020, tổng lượng hàng thông qua cảng biển Việt Nam đạt 692 triệu tấn, so với quy hoạch trước đây vượt 14 - 21%. Tuy nhiên, việc phân bổ hàng hóa không đồng đều. Hàng hóa tập trung chủ yếu ở khu vực phía Bắc và phía Nam (Nhóm 1 và Nhóm 5) chiếm 72%. Ba nhóm cảng còn lại chiếm 28%.
Về kết cấu hạ tầng cảng biển, tổng số cầu cảng hiện là 575 bến cảng với 94km bến, cơ bản đầu tư theo đúng quy hoạch, đạt 82%.
"Trên cơ sở nghiên cứu phù hợp với phân vùng KT-XH và yếu tố liên kết, hỗ trợ giữa các nhóm cảng, tại quy hoạch lần này, đơn vị tư vấn phân hệ thống cảng biển Việt Nam thành 5 nhóm cảng với 35 cảng biển. Trong đó, có 6 cảng đặc biệt (2 cảng hiện hữu là Hải Phòng, Bà Rịa - Vũng Tàu; 4 cảng quy hoạch tiềm năng thành cảng đặc biệt, gồm: Thanh Hóa, Đà Nẵng, Khánh Hòa, Sóc Trăng); 12 cảng loại 1, 17 cảng loại 2 và 3.
Theo đề án, tổng kinh phí để phát triển hệ thống cảng biển Việt Nam đến năm 2030 ước tính từ 150-200 nghìn tỷ đồng (không bao gồm kinh phí đầu tư đối với các bến cảng, cầu cảng chuyên dùng)", ông Đạt thông tin.
Bình luận bài viết (0)
Gửi bình luận