Theo Quy hoạch tổng thể phát triển hệ thống cảng hàng không, sân bay toàn quốc thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, tổng nhu cầu vốn đầu tư kết cấu hạ tầng cảng hàng không giai đoạn 2021 - 2030 là khoảng 479,6 nghìn tỷ đồng. Trong số này, nguồn vốn xã hội cần huy động khoảng 204.615 tỷ đồng.
Nhu cầu vốn đầu tư các công trình thiết yếu của CHK giai đoạn 2021 - 2030 là khoảng 403,1 nghìn tỷ đồng (Trong ảnh: Thi công sân bay Long Thành)
Long Thành, Nội Bài chiếm gần nửa vốn đầu tư
Theo Cục Hàng không VN, trong tổng số vốn trên, nhu cầu vốn đầu tư các công trình thiết yếu của CHK giai đoạn 2021 - 2030 là khoảng 403,1 nghìn tỷ đồng.
Nhu cầu vốn đầu tư các công trình dịch vụ chuyên ngành hàng không giai đoạn 2021 - 2030 là khoảng 76.500 tỷ đồng.
Trong số này, ngoài 109 nghìn tỷ đồng đầu tư cho sân bay Long Thành (một đường cất/hạ cánh, đường lăn, sân đỗ và nhà ga T1) thì số tiền đầu tư khu phía Bắc, nhà ga hành khách T3 và khu bay phía Nam của Cảng HKQT Nội Bài lên tới hơn 96,5 nghìn tỷ đồng.
Danh sách các sân bay khác có nhu cầu đầu tư ở mức chục nghìn tỷ đồng trở lên gồm: Tân Sơn Nhất (hơn 12,2 nghìn tỷ đồng), Cam Ranh (gần 20 nghìn tỷ đồng), Đà Nẵng (hơn 18,8 nghìn tỷ đồng), Cát Bi (hơn 10,6 nghìn tỷ đồng), Vinh (hơn 14,4 nghìn tỷ đồng), Phú Bài (hơn 13,3 nghìn tỷ đồng), Phú Quốc (hơn 12,6 nghìn tỷ đồng), Phan Thiết (gần 11 nghìn tỷ đồng).
“Khoản tiền đầu tư cho các sân bay trên chủ yếu tập trung vào đường lăn, sân đỗ, nhà ga. Riêng sân bay Phan Thiết là đầu tư mới”, đại diện Cục Hàng không VN cho hay.
Lợi nhuận giảm, kế hoạch của ACV gặp khó
Theo lãnh đạo Cục Hàng không VN, căn cứ Nghị định 05 của Chính phủ, trừ các công trình thuộc khu bay (không bao gồm sân đỗ) do Nhà nước (Bộ GTVT) trực tiếp đầu tư, Tổng công ty Cảng hàng không VN (ACV) có trách nhiệm đầu tư nâng cấp, mở rộng các công trình thiết yếu tại 21 CHK do ACV đang quản lý và khai thác.
Trường hợp ACV không thực hiện việc đầu tư theo kế hoạch phát triển CHK được Bộ GTVT phê duyệt, Bộ GTVT sẽ đề xuất, kêu gọi hình thức đầu tư phù hợp theo quy định của pháp luật.
Theo báo cáo cuối năm 2019 (khi trình Quốc hội và Chính phủ về Báo cáo nghiên cứu khả thi Dự án đầu tư xây dựng Cảng HKQT Long Thành giai đoạn 1), ACV cho biết, đã bố trí đủ 100% nhu cầu vốn cho các dự án đầu tư các công trình thiết yếu theo quy hoạch của 21 CHK do ACV quản lý, khai thác giai đoạn 2021 - 2025.
Tuy nhiên, theo báo cáo mới đây, do ảnh hưởng nặng nề của dịch Covid-19, nguồn thu và lợi nhuận dự kiến giai đoạn 2020 - 2025 của ACV giảm sút nghiêm trọng.
Cụ thể, lợi nhuận trước thuế trước đây dự kiến là 71.624 tỷ đồng, nay dự kiến là 36.903 tỷ đồng (giảm 34.721 tỷ đồng). Do đó, ACV không cân đối đủ nguồn lực đầu tư phát triển 21 CHK do ACV đang quản lý, khai thác.
Trong khi đó, phía Bộ GTVT, giai đoạn 2021 - 2025, theo số liệu kế hoạch đầu tư công trung hạn được Thủ tướng Chính phủ giao, Bộ GTVT đã cân đối được 4.279 tỷ đồng. Giai đoạn 2026 - 2030, Bộ GTVT dự kiến bố trí khoảng 5.562 tỷ đồng (tăng 30% so với giai đoạn 2021 - 2025).
Như vậy, giai đoạn 2021 - 2030, Bộ GTVT dự kiến cân đối được khoảng 9.841 tỷ đồng.
Như đã nói ở trên, nhu cầu vốn đầu tư các công trình thiết yếu của cảng hàng không giai đoạn 2021 - 2030 là khoảng 403.106 tỷ đồng. ACV cân đối được khoảng 265.150 tỷ đồng (bao gồm vốn tự có khoảng 188.432 tỷ đồng và vốn vay thương mại khoảng 76.718 tỷ đồng).
Bộ GTVT cân đối được 9.841 tỷ đồng, cần phải huy động thêm là 128.115 tỷ đồng. Nhu cầu vốn đầu tư các công trình dịch vụ chuyên ngành hàng không giai đoạn 2021 - 2030 là khoảng 76.500 tỷ đồng.
Điều này cũng đồng nghĩa với việc tổng nhu cầu huy động nguồn vốn xã hội đầu tư hạ tầng CHK là khoảng 204.615 tỷ đồng.
Phân loại sân bay để xã hội hóa đầu tư
Tại Đề án Định hướng huy động nguồn vốn xã hội đầu tư kết cấu hạ tầng cảng hàng không vừa được Cục Hàng không VN trình Bộ GTVT, cơ quan này đã kiến nghị phân loại 21 sân bay hiện hữu do ACV quản lý thành 5 nhóm.
Cụ thể, nhóm 1 gồm các sân bay: Nội Bài, Đà Nẵng, Cam Ranh, Phú Quốc, Long Thành, Tân Sơn Nhất. Đây là các cảng hàng không quốc tế quan trọng của quốc gia, có công suất quy hoạch đến năm 2030 lớn hơn 25 triệu hành khách/năm.
Nhóm 2 gồm các sân bay: Thọ Xuân, Chu Lai, Phù Cát, Tuy Hòa. Đây là các sân bay có hoạt động quân sự, huấn luyện quân sự thường xuyên, tài sản và đất đai khu bay do Bộ Quốc phòng quản lý.
Nhóm 3 gồm các sân bay: Điện Biên, Nà Sản, Đồng Hới, Pleiku, Buôn Ma Thuột, Rạch Giá, Cà Mau, Côn Đảo, vốn là các cảng hàng không ở vùng sâu, vùng xa, miền núi, hải đảo, cân đối thu chi khó khăn, có công suất quy hoạch đến năm 2030 nhỏ hơn 5 triệu hành khách/năm.
Nhóm 4 gồm các sân bay: Cát Bi, Vinh, Phú Bài, Liên Khương, Cần Thơ, có công suất quy hoạch đến năm 2030 lớn hơn 5 triệu hành khách/năm, có tiềm năng phát triển, có khả năng thu hút các nhà đầu tư, không có hoạt động quân sự thường xuyên.
Nhóm 5 là các cảng hàng không mới như: Sa Pa, Quảng Trị, Lai Châu và các cảng hàng không tiềm năng như: Cao Bằng, Hải Phòng (Tiên Lãng), cảng hàng không thứ 2 vùng Thủ đô.
Định hướng huy động vốn đầu tư các dự án hạ tầng hàng không, Cục Hàng không VN đề xuất đối với nhóm 1, Bộ GTVT bố trí vốn đầu tư khu bay; ACV bố trí vốn đầu tư các công trình hạ tầng thiết yếu còn lại; huy động 100% nguồn vốn xã hội để đầu tư các công trình dịch vụ hàng không và phi hàng không theo hình thức đầu tư kinh doanh.
Đối với nhóm 2, trường hợp Bộ Quốc phòng bàn giao khu bay cho Bộ GTVT hoặc địa phương quản lý, sẽ huy động nguồn vốn xã hội đầu tư toàn bộ sân bay theo hình thức đối tác công - tư (PPP) sử dụng tài sản kết cấu hạ tầng hiện có để tham gia dự án.
Với nhóm 3 và nhóm 4, Cục Hàng không VN, Bộ GTVT chuyển giao khu bay và ACV chuyển giao các công trình hạ tầng thiết yếu còn lại cho địa phương huy động nguồn lực đầu tư theo hình thức PPP.
Riêng nhóm 5, Cục Hàng không VN kiến nghị huy động nguồn vốn xã hội đầu tư toàn bộ theo hình thức PPP và giao UBND các tỉnh có quy hoạch sân bay mới là cơ quan có thẩm quyền đầu tư, chủ động huy động, tổ chức thực hiện đầu tư.
Theo Cục Hàng không VN, Tổng công ty Cảng hàng không VN (ACV) là doanh nghiệp cảng hàng không (CHK) do Nhà nước thành lập với mục đích tiếp nhận, quản lý, khai thác, vận hành, cũng như đầu tư, cải tạo, mở rộng các CHK trên cả nước.
ACV đang quản lý, khai thác 22 CHK. Các CHK của ACV không hạch toán riêng, mà hạch toán phụ thuộc nên kết quả hoạt động kinh doanh từng CHK căn cứ vào số liệu thu, chi và phân bổ chi phí chung. Đáng chú ý, trong 21 CHK do ACV quản lý, khai thác, mới có 15 cảng có lãi.
Bình luận bài viết (0)
Gửi bình luận