Sắp xếp, kiện toàn cần cân nhắc không làm tăng biên chế
Trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo, Chủ nhiệm Ủy ban Quốc phòng và An ninh Lê Tấn Tới cho biết, một số ý kiến đề nghị mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật để bao quát hết các lực lượng có tính chất tự nguyện, tự quản tham gia hỗ trợ công an cấp xã.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) thấy rằng, Hiến pháp năm 2013, Luật Công an nhân dân và nhiều văn bản quy phạm pháp luật khác đã quy định mọi công dân đều có nghĩa vụ tham gia bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội. Các lực lượng ở cơ sở có trách nhiệm tham gia, hỗ trợ công an nhân dân trong việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự (ANTT).
Tuy nhiên, hỗ trợ có tính chất thường xuyên, nòng cốt, có quá trình thực hiện lâu dài trên phạm vi toàn quốc thì chỉ có ba lực lượng, đó là bảo vệ dân phố, dân phòng và công an xã bán chuyên trách đang tiếp tục sử dụng.
Vì vậy, UBTVQH đề nghị Quốc hội không mở rộng phạm vi điều chỉnh của Luật.
Về vị trí, chức năng của lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở, tiếp thu các ý kiến trên, UBTVQH đã chỉ đạo bổ sung điều 2 để làm rõ khái niệm đây là lực lượng do chính quyền thành lập trên cơ sở tự nguyện của người dân.
Chỉnh lý vị trí, chức năng tại điều 3 để thể hiện rõ hơn đây là lực lượng quần chúng được bố trí ở cơ sở, có chức năng làm nòng cốt trong hỗ trợ lực lượng công an thực hiện nhiệm vụ bảo vệ an ninh, trật tự, xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở cơ sở.
Một số ý kiến đề nghị cân nhắc việc sắp xếp, kiện toàn lực lượng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở để không làm tăng biên chế, không chồng chéo chức năng, nhiệm vụ với các lực lượng khác, không phát sinh thủ tục hành chính.
Tiếp thu ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, UBTVQH đã chỉ đạo rà soát, chỉnh lý các quy định về sắp xếp, kiện toàn, bố trí lực lượng phù hợp với tình hình, yêu cầu bảo đảm ANTT, điều kiện kinh tế - xã hội của từng địa phương.
Đồng thời, đơn giản hóa trình tự, thủ tục thành lập tổ và công nhận các chức danh của tổ bảo vệ ANTT; rà soát chức năng, nhiệm vụ để không chồng chéo với các lực lượng khác và bảo đảm tính khả thi.
Cần số liệu cụ thể chứng minh không làm tăng ngân sách
Về kinh phí hoạt động và trang bị cơ sở vật chất của lực lượng bảo vệ ANTT ở cơ sở, nhiều ý kiến đề nghị báo cáo đánh giá kỹ hơn về tổ chức, ngân sách khi thành lập lực lượng này.
Có ý kiến cho rằng lực lượng này không chỉ dừng lại ở số lượng khoảng 300.000 người như tờ trình dự án Luật do Chính phủ trình và sẽ tăng kinh phí, ngân sách bảo đảm. Do đó, đề nghị có số liệu cụ thể chứng minh không làm tăng biên chế, không làm tăng ngân sách so với thực tiễn hiện nay.
Theo UBTVQH, tính đến tháng 12/2022, toàn quốc có 84.721 thôn, tổ dân phố. Nếu mỗi thôn, tổ dân phố đều thành lập tổ bảo vệ ANTT thì với 84.721 tổ, cần có ít nhất là 254.163 người tham gia (mỗi t cần ít nhất ba người) và dự kiến mức chi tổng kinh phí cần bảo đảm để thực hiện theo quy định của dự thảo Luật là 3.505 tỷ đồng/năm.
Tuy nhiên, do dự thảo Luật quy định mỗi tổ bảo vệ ANTT có thể phụ trách một hoặc một số thôn, tổ dân phố, nên tổng số tổ bảo vệ ANTT có thể giảm xuống, kéo theo tổng kinh phí bảo đảm cũng sẽ giảm xuống.
Như vậy, với cách dự tính nêu trên thì sẽ không tăng về số lượng người tham gia và không tăng về tổng kinh phí bảo đảm so với thực tiễn hiện nay.
Ngày 6/10/2023, Chính phủ đã có báo cáo bổ sung cho biết hiện nay trong toàn quốc có 298.688 người đang tham gia hoạt động trong lực lượng bảo vệ dân phố, công an xã bán chuyên trách đang được tiếp tục sử dụng và các chức danh đội trưởng, đội phó đội dân phòng.
Thực hiện quy định hiện hành, các địa phương trong cả nước đang chi trả cho tổ chức, hoạt động, chế độ, chính sách, bảo đảm điều kiện hoạt động của lực lượng bảo vệ dân phố, dân phòng, công an xã bán chuyên trách được tiếp tục sử dụng tham gia bảo vệ ANTT ở cơ sở.
Theo báo cáo của Chính phủ, mức chi hiện nay trong toàn quốc cho các lực lượng bảo vệ dân phố, công an xã bán chuyên trách đang được tiếp tục sử dụng, các chức danh đội trưởng đội, phó đội dân phòng trung bình là khoảng 3.570 tỷ đồng/năm và mức chi này đã được tính toán, bảo đảm sự công bằng giữa các lực lượng ở cơ sở. Trung bình một tỉnh, thành phố chi trả khoảng 56,7 tỷ đồng/năm, tương ứng khoảng 4,7 tỷ đồng/1 tháng.
Bình luận bài viết (0)
Gửi bình luận