Từ giữa tháng 6/2021, Chính phủ ban hành Nghị quyết 60 áp dụng cơ chế đặc thù trong cấp phép khai thác khoáng sản vật liệu xây dựng thông thường cung cấp cho cao tốc Bắc - Nam.
Tuy nhiên, sau 3 tháng, các dự án vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vật liệu từ các mỏ ở địa phương. Một trong những nguyên nhân là giấy phép đã được cấp cho các mỏ đều có công suất rất nhỏ.
Các dự án thành phần cao tốc Bắc - Nam phía Đông vẫn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vật liệu từ các mỏ ở địa phương (Trong ảnh: Thi công cao tốc Mai Sơn - QL45). Ảnh: Tạ Hải
Mỏ trữ lượng lớn, công suất khai thác quá thấp
Bộ GTVT đang triển khai thi công đồng loạt 10/11 dự án thành phần cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2017 - 2020 gồm: Cao Bồ - Mai Sơn, Mai Sơn - QL45, QL45 - Nghi Sơn, Nghi Sơn - Diễn Châu, Diễn Châu - Bãi Vọt, Cam Lộ - La Sơn, Nha Trang - Cam Lâm, Vĩnh Hảo - Phan Thiết, Phan Thiết - Dầu Giây, cầu Mỹ Thuận 2. Còn lại một dự án là Cam Lâm - Vĩnh Hảo dự kiến sẽ khởi công trong tháng 9/2021. Tuy nhiên, các dự án đều đang đứng trước nguy cơ chậm tiến độ do nguồn vật liệu đất đắp vẫn thiếu hụt trầm trọng.
Ông Lương Văn Long, Giám đốc điều hành dự án Mai Sơn - QL45 cho biết, nhu cầu vật liệu đất đắp của dự án cần khoảng 5,2 triệu m3 và khoảng 1,8 triệu m3 cát. Hiện, các mỏ vật liệu đã được chấp thuận để phục vụ dự án gồm 15 mỏ đất và 20 mỏ cát có trữ lượng cơ bản đáp ứng nhu cầu.
Tuy nhiên, công suất khai thác của các mỏ lại quá thấp. Thậm chí, như mỏ đất Đồi Ao ở huyện Hà Trung, trữ lượng khai thác theo giấy phép 660.417m3, công suất 180.000m3/năm đã cấp phép ngày 23/7/2021, song đến nay vẫn chưa thể khai thác do vướng GPMB.
Để tháo gỡ vướng mắc, sau khi có văn bản đề nghị của Bộ GTVT, cuối tháng 8/2021, ông Lê Đức Giang, Phó chủ tịch UBND tỉnh Thanh Hóa đã có văn bản yêu cầu Sở TN&MT chủ trì, phối hợp với sở, ngành liên quan khẩn trương rà soát việc nâng công suất đối với các mỏ, đề xuất giải pháp thực hiện; yêu cầu huyện Hà Trung đẩy nhanh tiến độ GPMB đối với mỏ Đồi Ao, báo cáo trước ngày 20/9/2021.
Tại dự án cao tốc QL45 - Nghi Sơn qua Thanh Hóa, ông Nguyễn Ngọc Quỳnh, Giám đốc điều hành dự án (Ban QLDA 2) cho biết, gói thầu XL1 và XL2 nằm trên địa bàn huyện Nông Cống (khu vực đang thực hiện giãn cách xã hội theo Chỉ thị 16) nên các mỏ vật liệu bị ngừng trệ, không vận chuyển được. Bên cạnh đó, các mỏ vật liệu chủ yếu là mỏ đất được cấp phép với công suất khai thác thấp nên không đáp ứng được nhu cầu cho dự án.
Theo ông Quỳnh, dự án QL45 - Nghi Sơn cần hơn 5,5 triệu m3 đất đắp, 707.000m3 đá các loại và hơn 1 triệu m3 cát. Riêng đối với đất đắp, Ban QLDA2, tư vấn thiết kế và nhà thầu đã khảo sát 11 mỏ đất đạt tiêu chuẩn với tổng trữ lượng khoảng 18,8 triệu m3.
Trong đó, 5 mỏ đã được cấp phép khai thác với tổng trữ lượng khoảng 9,6 triệu m3; 2 mỏ đã đấu giá quyền khai thác và đang triển khai cấp phép với tổng trữ lượng khoảng 1,3 triệu m3. Còn lại, 4 mỏ nằm trong quy hoạch nhưng chưa thực hiện đấu giá quyền khai thác có tổng trữ lượng khoảng 7,9 triệu m3.
Theo đánh giá của Ban QLDA 2, công tác thi công nền đường kéo dài khoảng 12 tháng (từ 7/2021 - 7/2022). Với việc các mỏ vật liệu đất đắp có giấy phép khai thác rất ít, dự án sẽ gặp nhiều khó khăn.
Cụ thể, ở gói thầu XL1 và XL2 (phía huyện Nông Cống), nhu cầu vật liệu đắp nền khoảng 4 triệu m3. Qua khảo sát, công suất cần khai thác hàng năm là 4 triệu m3, nhưng công suất khai thác thực tế chỉ có 93.000m3/năm, mới đáp ứng 2,2% nhu cầu.
Trước khó khăn trên, Ban QLDA2 đã có văn bản đề nghị UBND tỉnh Thanh Hóa xem xét ban hành cơ chế đặc thù theo Nghị quyết 60 để đẩy nhanh thủ tục cấp phép cho 6 mỏ đất để đảm bảo tiến độ thi công.
Mất không dưới 10 tháng để khai thác một mỏ đất mới
Cao tốc Vĩnh Hảo - Phan Thiết đã tập trung thi công hoàn thành phần phát quang, đào bóc hữu cơ, tuy vậy nguồn vật liệu đất đắp nền đường vẫn đang là vấn đề nan giải. Ảnh: Phan Tư
Sau hai tháng triển khai thi công cao tốc Nghi Sơn - Diễn Châu, ông Phạm Văn Minh, Phó giám đốc Ban QLDA6 cho biết, nhu cầu về vật liệu xây dựng phục vụ thi công dự án khoảng 1,1 triệu m3 cát, 0,8 triệu m3 đá và 8,5 triệu m3 đất đắp.
Qua khảo sát, vật liệu đá không đáng lo ngại nhưng về vật liệu cát và đất đắp vẫn còn gặp nhiều khó khăn. Các mỏ đất đang khai thác có trữ lượng mỏ lên đến hơn 10 triệu m3.
Tuy nhiên, công suất khai thác theo giấy phép hàng năm chỉ đạt khoảng 0,9 triệu m3/năm, trong khi những mỏ mới đã hoàn thành đấu giá lại chưa được cấp phép khai thác.
Điều này dẫn đến nghịch lý mỏ mới ở sát công trường không được lấy, còn mỏ lấy được thì lại cách công trường 40 - 50km, làm giá vận chuyển đẩy lên cao.
“Chẳng hạn, mỏ Chùa Đống ở xã Diễn Yên, huyện Diễn Châu cách công trường 300m, dù đã tổ chức đấu giá nhưng chưa được cấp phép khai thác. Hiện nay, các nhà thầu đành phải mua đất ở mỏ Đồi Tranh nằm tại thị xã Hoàng Mai với giá đất về tới công trường là 110.000 đồng/m3, không nhà thầu nào chịu nổi”, ông Minh dẫn chứng và cho biết, đã kiến nghị tỉnh Nghệ An đẩy nhanh tiến độ cấp phép khai thác các mỏ đã qua đấu giá và cho các mỏ cát, mỏ đất được nâng công suất khai thác, hạn chế tình trạng khan hiếm, đẩy giá lên cao.
Cũng theo ông Minh, nội dung này đã được lãnh đạo tỉnh Nghệ An ghi nhận và chỉ đạo Sở TN&MT phối hợp thực hiện. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của dịch Covid-19 và TP Vinh giãn cách xã hội cao hơn Chỉ thị 16 nên đến nay những vấn đề này vẫn chưa được giải quyết.
Để tháo gỡ khó khăn về nguồn đất đắp, cuối tháng 8/2021, Ban QLDA đường Hồ Chí Minh cũng có văn bản đề nghị UBND tỉnh Thừa Thiên - Huế đẩy nhanh thủ tục, đảm bảo nguồn cung vật liệu để phục vụ thi công dự án đầu tư xây dựng đoạn Cam Lộ - La Sơn.
Cụ thể, Ban đề nghị tỉnh tăng công suất đối với mỏ ở khu vực đồi Vũng Nhựa, thị trấn Phong Điền; Mở rộng mỏ Hiền Sỹ tại xã Phong Sơn, huyện Phong Điền theo đúng quy hoạch. Đồng thời, sớm cấp phép khai thác các mỏ mới trên địa bàn.
Còn tại phía Nam, ông Hoàng Tuấn Khoát, Phó giám đốc Ban QLDA7 cho biết, dự án cao tốc Vĩnh Hảo - Phan Thiết đi qua tỉnh Bình Thuận, tổng nhu cầu vật liệu đắp nền đường của dự án khoảng 9,2 triệu m3, hiện còn thiếu hơn 6 triệu m3.
Theo ông Khoát, việc áp dụng cơ chế đặc thù trong Nghị quyết 60 thời gian qua mới chỉ giảm bớt được thủ tục đấu giá quyền khai thác mỏ, còn các thủ tục khác như thăm dò, phê duyệt trữ lượng, đánh giá tác động môi trường, phê duyệt chủ trương đầu tư, GPMB, cấp quyền khai thác... đối với các mỏ khai thác mới không có gì thay đổi, bởi vẫn phải tuân thủ theo quy định của Luật Khoáng sản.
“Theo ý kiến của Sở TN&MT tỉnh Bình Thuận, để có thể đưa vào khai thác một mỏ đất mới phải thực hiện qua 10 bước với thời gian không dưới 10 tháng”, ông Khoát thông tin.
Liên quan đến quy định cho phép nâng công suất không quá 50% công suất ghi trong giấy phép đối với các mỏ đã cấp phép, đang hoạt động theo Nghị quyết 60 của Chính phủ, ông Khoát nói: “Quy định này mới chỉ mở được một phần, bởi việc khống chế mức nâng công suất mỏ lên không quá 50% và không tăng trữ lượng đã cấp phép theo Nghị quyết 60 đã hạn chế và trói buộc năng lực khai thác của các mỏ, trong khi nhu cầu cung cấp cho dự án là rất lớn và trong một thời gian ngắn”.
Đề xuất sửa đổi nội dung Nghị quyết 60
Thi công cao tốc Vĩnh Hảo – Phan Thiết. Ảnh: Phan Tư
Đại diện Cục QLXD&CLCTGT cho biết, sau khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 60 (ngày 16/6/2021) đã tháo gỡ, giảm bớt được thủ tục nâng công suất khai thác các mỏ vật liệu và thủ tục đấu giá quyền khai thác mỏ.
Tuy nhiên, còn một số vướng mắc về thủ tục khi cấp phép khai thác đối với các mỏ cấp phép mới như: Cấp phép thăm dò; phê duyệt trữ lượng; lập báo cáo đánh giá tác động môi trường; lập và phê duyệt chủ trương đầu tư, dự án đầu tư; thiết kế mỏ; cấp quyền khai thác; thuê đất… vẫn phải tuân thủ theo quy định của Luật Khoáng sản.
Kể từ khi Chính phủ ban hành Nghị quyết 60 đến cuối tháng 8/2021 đã có 17 mỏ được cấp phép mới nhưng lại giảm 15 mỏ đã cấp phép do nằm trong quy hoạch bị cấm khai thác hoặc chất lượng không đảm bảo yêu cầu kỹ thuật.
Theo đại diện Cục QLXD&CLCTGT, để tháo gỡ vướng mắc về nguồn vật liệu, Bộ GTVT sẽ tiếp tục đề nghị Bộ TN&MT tham mưu Chính phủ điều chỉnh nội dung Nghị quyết 60 theo hướng bỏ giới hạn nâng công suất khai thác không quá 50% công suất ghi trong giấy phép khai thác, bởi nội dung này đang làm hạn chế năng lực khai thác của một số mỏ đất trong khi nhu cầu cung cấp cho dự án rất lớn trong thời gian ngắn.
“Tại dự án cao tốc Vĩnh Hảo - Phan Thiết qua địa bàn Bình Thuận, nhiều mỏ đất đắp trong khu vực có điều kiện thuận lợi, tuy nhiên công suất khai thác ghi trong giấy phép nhỏ, thường từ 20.000 - 40.000m3/năm, dù áp dụng cơ chế đặc thù của Nghị quyết 60 cũng không được khai thác hết trữ lượng để cung cấp cho dự án”, vị này nói.
Đồng thời, Bộ GTVT cũng đề nghị Bộ TN&MT đề xuất Chính phủ bỏ quy định “không tăng trữ lượng đã cấp phép” trong Nghị quyết 60 do một số mỏ đất trong giấy phép khai thác quy định trữ lượng nhỏ hơn nhiều so với trữ lượng, khả năng khai thác thực tế.
Ngoài ra, Bộ GTVT tiếp tục phối hợp với Bộ TN&MT kiến nghị Chính phủ báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho phép UBND các tỉnh, thành có tuyến đường cao tốc Bắc - Nam đi qua được cấp phép khai thác ngay đối với trường hợp cấp phép mới các mỏ khoáng sản làm vật liệu xây dựng thông thường phục vụ thi công dự án gồm cả mỏ chưa cấp phép thăm dò hoặc đã cấp phép thăm dò.
9 dự án đang thiếu hụt 21,6 triệu m3 vật liệu
Theo đại diện Cục QLXD&CLCTGT, hiện có 9 dự án thành phần cao tốc Bắc - Nam đi qua địa bàn 11 tỉnh gặp vướng mắc về nguồn vật liệu đất đắp gồm: Mai Sơn - QL45 (Ninh Bình), QL45 - Nghi Sơn (Thanh Hóa), Nghi Sơn - Diễn Châu (Thanh Hóa và Nghệ An), Diễn Châu - Bãi Vọt (Nghệ An và Hà Tĩnh), Cam Lộ - La Sơn (Quảng Trị và Thừa Thiên - Huế), Nha Trang - Cam Lâm (Khánh Hòa), Cam Lâm - Vĩnh Hảo (Bình Thuận), Vĩnh Hảo - Phan Thiết (Bình Thuận), Phan Thiết - Dầu Giây (Đồng Nai).
Hiện nay, các dự án này đang thiếu hụt khoảng 21,6 triệu m3 vật liệu đất đắp nền đường gồm: 14,4 triệu m3 tại các mỏ chưa được cấp phép khai thác và 7,2 triệu m3 nằm tại các mỏ đã cấp phép khai thác nhưng do chưa GPMB hoặc cự ly vận chuyển quá xa nên cần phải cấp phép bổ sung thêm các mỏ đất.
Nếu không kịp thời tháo gỡ các thủ tục cấp phép khai thác các mỏ vật liệu đất đắp, một số dự án thành phần cao tốc Bắc - Nam có nguy cơ chậm tiến độ. Đặc biệt là hai dự án Vĩnh Hảo - Phan Thiết và Phan Thiết - Dầu Giây, có nguy cơ không hoàn thành vào tháng 12/2022.
Nâng công suất khai thác tối đa theo nhu cầu
Chiều 7/9, trao đổi với Báo Giao thông, đại diện Tổng cục Địa chất và Khoáng sản Việt Nam (Bộ TN&MT) cho biết, thời gian qua, Bộ TN&MT đã chủ trì cùng các bộ, ngành liên lập các đoàn kiểm tra tại 10/13 tỉnh nơi có dự án cao tốc Bắc - Nam đi qua.
“3 tỉnh còn lại là Nam Định, Hà Tĩnh và Ninh Thuận không có vướng mắc lớn nên chúng tôi chỉ tập trung kiểm tra tại 10 tỉnh, thành để ghi nhận tình hình, kiến nghị giải pháp phù hợp”, vị đại diện cho biết.
Hiện, kết quả kiểm tra tổng thể đang được tổng hợp để hoàn thiện, báo cáo Thủ tướng trong ngày 9/9. Trong đó, nổi lên vấn đề phần lớn giấy phép đã được cấp cho các mỏ đều có công suất rất nhỏ. Chẳng hạn tại Thanh Hóa, có những mỏ công suất chỉ khoảng 15 - 50 nghìn m3/năm…
Theo vị đại diện, những mỏ có công suất dưới 100 nghìn m3/năm chiếm tới khoảng 80% tại các địa phương. Do vậy, việc đề nghị nâng công suất mỏ lên 50% không có nhiều ý nghĩa. Như tại Thanh Hoá đang thiếu gần 3 triệu m3 đất san lấp nhưng ngay cả khi nâng công suất tất cả 24 mỏ đã được cấp phép trên địa bàn cũng chỉ được 800 nghìn m3.
“Trong khi làm thủ tục cấp phép mỏ mới sẽ phải mất ít nhất từ 6 - 8 tháng, vậy thì tại sao không tận dụng những mỏ đã sẵn có để khai thác hết trữ lượng phục vụ cho công trình ngay lập tức? Đáng nói, mùa mưa cũng chuẩn bị đến, nếu chỉ chậm sau 2 - 3 tháng nữa sẽ rất khó để thi công.
Chính vì vậy, trong văn bản báo cáo Chính phủ tới đây, chúng tôi sẽ kiến nghị nâng công suất tối đa theo nhu cầu bởi thực tế đây là những mỏ đất chứ không phải các mỏ kim loại hay khoáng sản khác có thể gây ô nhiễm môi trường”, vị đại diện thông tin.
Mặt khác, kết quả kiểm tra thực tế nhiều địa phương không có đủ đất đạt tiêu chuẩn để san lấp nền đường. Ví như tại Đồng Nai, nhu cầu đất san lấp lớn, dù đã huy động nhiều mỏ nhưng cũng chỉ khai thác được tầng phủ, còn lại lớp dưới đều là đất đá phong hóa không đảm bảo độ chặt. Phương án huy động vật liệu san lấp thay thế cũng khó khả thi, bởi giá thành bị đội lên do khoảng cách vận chuyển tới chân công trình khá xa. Do vậy, khu vực này hiện đang thiếu nhiều đất san lấp nhất, nguy cơ chậm tiến độ hiện hữu.
“Nhiều nơi tưởng như cấp phép đủ trữ lượng nhưng thực tế khi khai thác mới biết thiếu đất đảm bảo chất lượng. Khó khăn này chỉ có thể tháo gỡ bằng những giải pháp tình huống như san gạt, hạ thấp độ cao, cải tạo đất cho một số diện tích trên địa bàn để có thể cung cấp ngay cho công trình”, vị đại diện nói và cho biết, quá trình kiểm tra cho thấy, đất đủ điều kiện làm nền đường có nơi chỉ đạt 1/10 trữ lượng cấp phép. Đây cũng là nguyên nhân chính dẫn tới thiếu hụt đất san lấp cho công trình.
Tuyết Trịnh
Bình luận bài viết (0)
Gửi bình luận